Archive

Posts Tagged ‘nghiên cứu Nhật Bản’

“Cải cách giáo dục Nhật Bản” dạng e-book

April 15, 2014 Leave a comment

NIÊN BIỂU TÓM TẮT LỊCH SỬ SÁCH GIÁO KHOA NHẬT BẢN THỜI CẬN HIỆN ĐẠI (III)

February 25, 2014 Leave a comment

(các nội dung tính đến năm 1872 được tính theo lịch cũ. Con số trong ngoặc đơn là chỉ tháng)

Nguyễn Quốc Vương dịch từ “Những bước đi của sách giáo khoa Nhật Bản thời cận hiện đại” của tác giả Kimata Kyohiro, Đại học Shiga, 2006.

1965 (Năm Showa thứ 40) Tỉ lệ bình quân học sinh vào học trường Trung học phổ thông trên toàn quốc vượt 70% (4), Ienaga Zaburo kiện ra tòa án Tokyo vì cho rằng việc kiểm định sách giáo khoa là vi hiến (vụ kiện lần 1) (6)
1966 (Năm Showa thứ 41) Hiệp ước ILO 87 có hiệu lực (khuyến cáo đối với địa vị của giáo viên) (6)
1967 (Năm Showa thứ 42) Bộ giáo dục phân phát sách cẩm nang “một số vấn đề về chỉ đạo đạo đức” tới các trường tiểu học, trung học cơ sở (5), Ienaga Zaburo kiện ra tòa án Tokyo đòi hủy  quyết định đánh trượt sách giáo khoa của ông khi kiểm định (vụ kiện lần 2) (6)
1968 (Năm Showa thứ 43) Thống nhất chuyển giao quyền cấp pháp giấy phép hành nghề giáo viên cho Ủy ban giáo dục các Đô, đạo, phủ, tỉnh, lập ra Cục văn hóa trong bộ giáo dục (6), Công bố Hướng dẫn học tập ở trường tiểu học (7), trong năm này đã diễn ra các cuộc đấu tranh gay gắt ở các trường đại học trên toàn quốc.
1969 (Năm Showa thứ 44) Công bố Hướng dẫn học tập trung học cơ sở (4)
1970 (Năm Showa thứ 45) Ienaga Zaburo kiện đòi xóa bỏ quyết định đánh trượt sách giáo khoa kiểm định, tòa án tokyo tuyên bố ông thắng kiện (7), công bố Hướng dẫn học tập trung học phổ thông (10), các trường học ở Osaka, Tokyo bị thiệt hại bởi hiện tượng khói quang học.
1971 (Năm Showa thứ 46) Do có thêm giáo dục ô nhiễm môi trường nên bản Hướng dẫn học tập cấp tiểu học, trung học cơ sở được sửa đổi một phần và sửa đổi cả sách giáo khoa (1), Các trường tiểu học thực hiện toàn diện khóa trình giáo dục mới và sách giáo khoa mới (4).
1972 (Năm Showa thứ 47) Trường trung học cơ sở thực hiện toàn diện khóa trình giáo dục mới, sách giáo khoa mới (4), Bộ giáo dục tiến hành kỉ niệm 100 năm học chế (10).
1973 (Năm Showa thứ 48) Trường trung học phổ thông thực hiện khóa trình giáo dục mới và sách giáo khoa mới (4), Công bố chính lệnh về thực hiện chế độ nghĩa vụ đối với trường giáo dục đặc biệt (11)
1974 (Năm Showa thứ 49) Công bố “Luật về đảm bảo nhân tài giáo viên trong các trường giáo dục nghĩa vụ” (2), pháp chế hóa chức vụ hiệu phó (sửa đổi luật giáo dục trường học) (6), Quyết định xét xử lần thứ nhất vụ kiện lần 1 vê sách giáo khoa của Ienaga (Ienaga kiện cả nhà nước) (7), Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở lên học THPT lần đầu tiên vượt 90% (11).
1975 (Năm Showa thứ 50) Tòa án Tokyo ra phán quyết về vụ kiện lần 2 của Ienaga (bãi đơn kháng cáo của bộ giáo dục, chuyển hồ sơ lên Tòa tối cao)
1976 (Năm Showa thứ 51) Bộ giáo dục trình Sách trắng về giáo dục “Tiêu chuẩn giáo dục của nước ta” ra trước nội các (bằng cấp, tính cần thiết của học tập suốt đời) (5)
1977 (Năm Showa thứ 52) Ra đời trung tâm thi vào đại học (5), công bố Hướng dẫn học tập ở tiểu học, trung học cơ sở (giảm giờ học để thực hiện giáo dục yutori, coi trọng giáo dục đạo đức, thể chất) (7), thiết lập luật trả lương cho giáo viên chủ nghiệm (12).
1978 (Năm Showa thứ 53) Công bố Hướng dẫn học tập ở trung học phổ thông (8)
1979 (Năm Showa thứ 54) Lần đầu tiên thực hiện nghĩa vụ hóa trường giáo dục đặc biệt (4)
1982 (Năm Showa thứ 57) Chính phủ Trung Quốc phản đối sách giáo khoa lịch sử của Nhật Bản (7), Hội nghị bàn về kiểm định sách giáo khoa “về kiểm định bài viết trong sách giáo khoa lịch sử” đưa ra báo cáo (11), từ năm này trở đi các chỉ trích, phản đối từ các nước châu Á đối với sách giáo khoa nổ ra (vấn đề xâm lược hay tiến vào).
1983 (Năm Showa thứ 58) Hội nghị thẩm định giáo dục trung ương đưa ra báo cáo “Về sách giáo khoa” (công bố một phần kết quả kiểm định, mở rộng khu vực tuyển chọn) (6)
1984 (Năm Showa thứ 59) Ienaga kiện lần 3 (đòi bồi thường) (1), Ra đời hội đồng thẩm định giáo dục lâm thời (8).
1985 (Năm Showa thứ 60) Hội đồng thẩm định giáo dục lâm thời đưa ra bản báo cáo lần thứ nhất về cải cách giáo dục (6), từ đây về sau hội đồng còn đưa ra bản báo cáo lần 2 (1986), lần 3, 4 (1987).
1987 (Năm Showa thứ 62) Hội đồng thẩm định giáo dục lâm thời trong bản báo cáo lần 4 đề xuất quy định sách giáo khao là tài liệu học tập và tiếp tục chế độ miễn phí sách giáo khoa (8), trong báo cáo cải cách khóa trình giáo dục của Hội đồng thẩm định khóa trình giáo dục có đề xuất thiết lập môn Đời sống ở tiểu học, phân chia môn Xã hội ở THPT thành môn Địa lý-lịch sử và Công dân (12)
1988 (Năm Showa thứ 63) Bộ giáo dục công bố hiện tượng học sinh cự tuyệt trường học rất nghiêm trọng từ cuộc điều tra tình hình một số vấn đề của học sinh (11), sửa đổi một phần trong Luật cấp giấy phép hành nghề cho giáo viên (12).
1989 (Năm Heisei nguyên niên) Bộ giáo dục công bố Hướng dẫn học tập ở tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và mầm non, triển khai chế độ thực tập của giáo viên mới vào làm ở tiểu học (1), bức tường Berlin sụp đổ (11), Liên hợp quốc thông qua “Công ước về quyền trẻ em” (11)
1990 (Năm Heisei thứ 2) Thông cáo của hội những người nghiên cứu về cách thức tuyển chọn sách giáo khoa (2)
1992 (Năm Heisei thứ 4) Bắt đầu sử dụng sách giáo khoa ở trường tiểu học dựa trên bản Hướng dẫn học tập mới (sách môn Đời sống và Sức khỏe lần đầu xuất hiện) (4), Bắt đầu thực hiện tuần học 5 ngày một lần trong tháng (vào tuần thứ 2).
1993 (Năm Heisei thứ 5) Bộ giáo dục đưa ra thông báo về “tuyển  chọn học sinh vào trung học phổ thông” (yêu cầu sửa chữa việc học lệch, học chỉ vì thi cử).
1994 (Năm Heisei thứ 6) Bắt đầu tiến hành chế độ trường THPT theo đơn vị học trình (tani) và trường THPT có khoa tổng hợp (4), Hội nghị đối phó với bắt nạt học đường ra đời (12)

Cải cách giáo dục nhật bản

January 2, 2014 Leave a comment

Trẻ em chính là mầm non của đất nước, là tương lai, là vận mệnh quốc gia. Việc giáo dục cho trẻ em luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong mọi chiến lược phát triển đất nước.

Chúng ta không thể không thừa nhận một thực tế rằng: thông qua giáo dục mà xã hội được “tái sản xuất” trong đó trẻ em được được đảm bảo về nhân quyền và sinh tồn. Và một khi như vậy thì đương nhiên, một loạt các yếu tố căn bản như giải quyết các vấn đề quốc tế, đối phó với các vấn đề xã hội, trợ giúp sự sinh tồn của cá nhân sẽ trở thành các vấn đề cơ bản của giáo dục.

Nhà sách trực tuyến – nhà sách việt xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc cuốn sách mới nhất của tác giả Ozaki Mugen với tựa đề: “Cải cách giáo dục nhật bản

Cuốn sách này sẽ xác nhận tầm quan trọng của giáo dục trẻ em trong dòng chảy mang tính lịch sử của giáo dục Nhật Bản hiện đại

Dẫu cho đánh giá thế nào thì cuộc cải cách giáo dục không thể chậm trễ vẫn đang đặt ra. Cải cách giáo dục một lần nữa sẽ được hiểu như là vấn đề thận trọng và mang tính toàn cầu chứ không phải là sự giải quyết cái khung quốc gia đơn thuần và chúng ta mong ước con đường đó sẽ sớm được triển khai

Cải cách giáo dục nhật bản” đề cập đến các nội dung sau:

I. Sự xuất phát của giáo dục hiện đại
1. Giáo dục trong quá trình khai sáng văn minh
2. Phong trào Tự do dân quyền và giáo dục
II. Giáo dục của quốc gia dưới chế độ thiên hoàng
1. Chế độ giáo dục quốc gia chủ nghĩa
2. Sắc chỉ giáo dục và trường học
III. Sự xác lập mang tính xã hội của trường học
1. Trường tiểu học với tư cách là giáo dục quốc dân
2. Sự phát triển  của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản và giáo dục
3. Các vấn đề xã hội và giáo dục
IV. “Giáo dục mới thời Taisho”
1. Cải cách giáo dục
2. Sự nóng lên của nhu cầu giáo dục
3. Phong trào giáo dục
V. Giáo dục thời kì động loạn
1. Trường học trong thời kì khủng hoảng Showa
2. Cải cách xã hội và kiểm soát  tư tưởng
3. Trường học dưới thể chế thời chiến
VI. Sự xuất phát của giáo dục sau chiến tranh
1. Cải cách giáo dục sau chiến tranh
2. Giáo dục trường học và học sinh
3. Phong trào giáo dục
VII. Xã hội bằng cấp và giáo dục chạy theo điểm số
1. Sự tu chỉnh giáo dục sau chiến tranh
2. Chính sách phát triển kinh tế tốc độ cao và chủ nghĩa năng lực
3. Sự trưởng thành của chủ nghĩa bằng cấp
VIII. Thời đại cải cách giáo dục
1. Môi trường giáo dục của trẻ em
2. Câu hỏi đặt ra cho cải cách giáo dục

Nguồn ở đây

NHỮNG BƯỚC ĐI CỦA SÁCH GIÁO KHOA NHẬT BẢN HIỆN ĐẠI – Từ thời Minh Trị đến Hiện đại- (8)

December 14, 2013 Leave a comment

Tác giả: Kimata Kiyohiro

Đại học Shiga, 10/2006

Người dịch: Nguyễn Quốc Vương

(Bản tóm tắt)

 

2. Sự biến đổi của sách giáo khoa địa lý trường tiểu học trước chiến tranh.

Sách giáo khoa  địa lý quốc định trường tiểu học đã trải qua 8 lần thay đổi tính cả một lần diễn ra vào sau thời chiến tranh. Sách phát hành ngay sau khi chiến tranh kết thúc năm 1946 (năm Showa thứ 21) chỉ là “sách giáo khoa tạm thời”. Việc nghiên cứu về sách giáo khoa địa lý quốc định trước chiến tranh đã tiến triển nhiều trên cơ sở thành quả của các công trình nghiên cứu như: “Lịch sử sách giáo khoa quốc định”, “Giải thích về sách giáo khoa quốc định-thời kì trường quốc dân” của Nakamura, do nhà xuất bản Horupu ấn hành năm 1982. Trong sách nghiên cứu của Karazawa Tomitaro trước đó có cho rằng sách ra đời vào thời kì thứ tư năm 1925 (năm Taisho thứ 14) không được coi là sách giáo khoa quốc định trong một thời kì độc lập. Ở đây, chúng tôi theo luận văn của Nakamura mà chia thành 7 kì (bảng số 1)

(1) Sách giáo khoa địa lý quốc định đầu tiên: “Địa lý tiểu học” thời kì thứ nhất.

“Địa lý tiểu học” phát hành vào năm 1903 (năm Minh Trị thứ 36) là sách giáo khoa địa lý quốc định đầu tiên. “Địa lý tiểu học” gồm 4 quyển dành cho 4 năm học ở tiểu học bậc cao. Quyển 1 và 2 dành cho năm thứ 1 và thứ hai viết về địa lý Nhật Bản, quyển 3 dành cho năm thứ 3 viết về địa lý nước ngoài, quyển 4 dành cho năm thứ tư viết bổ sung về địa lý Nhật Bản và địa lý nước ngoài. Đương thời phần lớn học sinh chỉ học đến lớp 2 tiểu học bậc cao vì thế không có điều kiện học địa lý nước ngoài. Ở các lớp tiểu học vì thế chỉ được học địa lý Nhật Bản.

Sách giáo khoa địa lý quốc định thời kì thứ nhất được sử dụng từ năm 1904 trở đi (năm Minh Trị thứ 37) và nó có 3 đặc trưng sau:

(1) với tư cách là phân chia khu vực, sự phân chia thành 8 khu vực đã được lựa chọn. Sự phân chia khu vực theo “địa phương-phủ-tỉnh” này được bắt đầu từ khu vực Kanto.

(2) với tư cách là cơ sở của sự biên tập giáo tài, các giáo tài về quân sự, quốc phòng như quân cảng, bộ tư lệnh sư đoàn chiếm địa vị lớn. Các tri thức về quốc phòng được gia tăng và các cơ quan, cơ sở của chính phủ được đưa ra một cách ưu tiên nhằm giáo dục lòng yêu nước.

(3) Đưa ra các bản đồ. Khi trình bày khái lược về địa chí từng địa phương đều có đưa thêm vào bản đồ địa phương đó, đối với các phủ-tỉnh cũng đều có bản đồ kèm theo. Bản đồ của phủ-tỉnh làm rõ biên giới, đường sắt, các đô thị, sông ngòi, các ngọn núi nổi tiếng, ngoài các thứ đó ra thì bỏ trắng và độ cao thấp của đất đai thì không thể hiện.

 

Biểu 1. Sự biến đổi của sách giáo khoa địa lý quốc định (6 năm giáo dục tiểu học)

Thời kì Tên sách giáo khoa Ngày phát hành (nguyên bản của bộ giáo dục) Tổng mục Ghi chú
1 Địa lý tiểu học  1

Địa lý tiểu học 2

13/10/1903 (năm Minh Trị thứ 36)

30/10/1903 (năm Minh Trị thứ 36)

62 mục, phụ lục: 4.

80 mục, phụ lục: 2.

Từ phương thức chia thành 8 đạo và Kinai sang phương thức phân chia thành 8 khu vực.

Sử dụng cho tiểu học bậc cao.

2

Địa lý tiểu học thông thường quyển 1.

Địa lý tiểu học thông thường quyển (sách dùng cho học sinh) quyển 2.

13/1/1910 (năm Minh Trị thứ 43)

24/11/1910 (năm Minh Trị thứ 43).

68 mục

 

 

 

65 mục

ở đầu quyển có mục “Đế quốc đại Nhật Bản”

 

quyển 2: vùng đất bên ngoài, thuộc địa và địa chí nước ngoài.

3 Sách địa lý tiểu học thông thường quyển 1

Sách địa lý tiểu học thông thường (dùng cho học sinh) quyển 2.

5/2/1918 (năm Showa thứ 7)

 

 

14/2/1919 (năm Minh Trị thứ 8)

89 mục, phụ lục: 3

 

118 mục, phụ lục: 3

Bỏ địa chí phân theo từng phủ, tỉnh mà dùng địa chí phân theo địa phương.
4 Sách địa lý dùng cho tiểu học thông thường quyển 1.

 

Sách địa lý dùng cho tiểu học thông thường (dành cho học sinh) quyển 2.

24/1/1925 (năm Taisho thứ 14)

 

 

 

 

10/12/1925 (năm Taisho thứ 14)

153 mục. phụ lục: 4

 

 

 

 

182 mục. Phụ lục: 1.

Thể văn nói. Có bài viết chính, gia tăng dung lượng tranh minh họa, sơ đồ, bản đồ.
5 Sách địa lý tiểu học thông thường quyển 1

Sách địa lý tiểu học thông thường quyển 2.

20/3/1929 (năm Showa thứ 4)

 

29/3/1930 (năm Showa thứ 5)

144 mục. phụ lục: 5

 

 

189 mục. phụ lục: 1

ở quyển 2 có thêm “Quần đảoNam Dương- vùng đất chúng ta được ủy thác cai trị”
6 Sách địa lý tiểu học thông thường quyển 1.

Sách địa lý tiểu học thông thường quyển 2

 25/3/1938 (năm Showa thứ 13)

 

 

17/3/1939 (năm Showa thứ 14)

122 mục. phụ lục: 5

180 mục. Phụ lục: 1

ở quyển 2 có thêm “Quần đảo Nam Dương của chúng ta”
7 Địa lý khoa sơ đẳng (thượng)

 

Địa lý khoa sơ đẳng  (hạ)

24/2/1943 (năm Showa thứ 18)

 

27/2/1943 (năm Showa thứ 18)

156 mục. Phụ lục: 4.

 

147 mục.

Sách giáo khoa về “địa lý đại đông Á”.

 

Quyển hạ là địa chí về “khối phồn vinh chung Đại Đông Á”

8 Địa lý khoa sơ đẳng (thượng)

 

 

 

Địa lý khoa sơ đẳng (hạ)

25/5/1946 (năm Showa thứ 21)

10/8/1946 (năm Showa thứ 21)

 

20/5/1946 (năm Showa thứ 21)

5/8/1946 (năm Showa thứ 21)

13 mục. 2 dan 2 kumi

6 mục

 

 

13 mục

 

39 mục

* Sách giáo khoa quốc định tạm thời

Thượng: Địa chí Nhật Bản

Hạ: Địa chí nước ngoài.

Sách giáo khoa địa lý quốc định đầu tiên đã thay đổi ngoạn mục từ việc lấy phân biệt theo các “đạo” sang phân biệt theo khu vực. Sự thay đổi này là do viên chức đảm trách sách giáo khoa của bộ giáo dục có tên Kida Teikichi tiến hành. Sự chuyển đổi từ sự phân chia làm các “quốc” (ví dụ Omi kuni) kiểu cũ sang phân chia thành các phủ, tỉnh (ví dụ: tỉnh Shiga) cũng được tiến hành đồng thời và sách thời kì thứ nhất đã ghi chép tên các “nước” cũ dưới tên các tỉnh.

 

(2) Sách giáo khoa địa lý quốc định thời kì thứ 2-tăng cường giáo dục địa lý theo chủ nghĩa quốc gia: “Địa lý tiểu học thông thường dành cho trẻ em” thời kì thứ 2.

 

Từ năm 1907 (năm Minh Trị thứ 40) số năm giáo dục nghĩa vụ được mở rộng từ 4 năm lên thành 6 năm. Tiểu học thông thường kéo dài thành 6 năm và tiểu học bậc cao gồm 2 hoặc 3 năm. Môn Địa lý với tư cách là môn giáo khoa dành cho năm thứ 5, 6 của khoa thông thường đã được tái biên soạn, học sinh ở năm thứ 5 được học khái quát về địa lý Nhật Bản, năm thứ 6 được học về các vùng đất của Nhật Bản ở bên ngoài như Triều Tiên, Mãn Châu và địa lý nước ngoài.

 

Sách giáo khoa quốc định thời kì thứ 2 năm 1910 (năm Minh Trị thứ 43) là sự sửa đổi tiếp nhận sự thay đổi của tình hình quốc tế sau chiến tranh Nhật-Nga. Trong sự sửa đổi này, “giáo tài khái quát về các vùng đất bên ngoài và địa lý nước ngoài” đã được đưa thêm vào cuối năm thứ 6. Ở quyển 1, “Đại đế quốc Nhật Bản” được viết ở chương 1 như sau: “Đại đế quốc Nhật Bản của chúng ta nằm ở phần phía đông châu Á, được tạo thành từ quần đảo Nhật Bản trải dài từ Đông Bắc đến Tây Nam và bán đảo Triều Tiên nhô ra bờ biển phía Đông của đại lục…. Dân cư chủ yếu là người thuộc dân tộc Yamato với số lượng chừng 68 triệu. Dân chúng kính trọng Thiên hoàng vạn thế nhất hệ và giàu lòng trung quân ái quốc”.

Quyển hai bắt đầu từ địa phương Kanto đến địa chí các địa phương khác đã đưa thêm vào các khu vực như Đài Loan, Karafuto, Triều Tiên, Mãn Châu trực thuộc Kanto-những vùng đất có được sau chiến tranh Nhật-Nga với tư cách là địa lý Nhật Bản. Trong chương 4 cuối quyển có trình bày vắn tắt về địa lý các nước ngoài có quan hệ sâu sắc với Nhật Bản, ở chương cuối có trình bày “khái quát về địa lý đế quốc”.

 

(3) Sách giáo khoa quốc định tiểu học sau Chiến tranh thế giới thứ nhất: “Sách địa lý tiểu học thông thường dùng cho học sinh”-“Sách địa lý tiểu học thông thường” từ thời kì thứ 3 đến thời kì thứ 6.

 

Sau sách giáo khoa quốc định kì thứ 3 trở đi cho đến kì thứ 6, “Sách địa lý tiểu học thông thường” quyển 1, 2 có tên như nhau và ở kì thứ 3, 4 thì có thêm cụm từ “dùng cho học sinh” đi kèm. Về mặt nội dung thì cũng không có gì thay đổi lớn. Do tác động của tình hình quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ nhất và sự biến đổi của tình hình trong nước mà từ kì 3 trở đi sách giáo khoa đã có sự sửa đổi.

“Sách giáo khoa địa lý tiểu học thông thường dùng cho học sinh” của kì 3 có quyển 1 được phát hành vào năm 1918 (năm Taisho thứ 7) và quyển 2 được phát hành vào năm 1919 (năm Taisho thứ 8). So với sách giáo khoa cho đến kì 2 thì số lượng mục nội dung ở quyển 1 và 2 tăng lên là do sự gia tăng của số giờ dành cho địa lý. Gộp cả Địa lý và Lịch sử Nhật Bản thì số giờ là 3 nhưng giờ đây thì số giờ dành cho địa lý và lịch sử Nhật Bản trong 2 tuần cho mỗi môn là 2 giờ nên tính tổng là 4 giờ. Từ sau kì thứ 3 đã diễn 3 lần sửa đổi sách vào kì thứ 4 năm 1925 (năm Taisho thứ 14),  kì thứ 5 năm 1929-1930 (năm Showa thứ 4-5), kì thứ 6 năm 1938-1939 (năm Showa thứ 13-14). Đến kì thứ 5 và thứ 6 sách có tên “Sách địa lý tiểu học thông thường” và cụm từ “dùng cho học sinh”đã biến mất trên bìa sách. Đặc trưng chủ yếu xét về mặt nội dung và cấu tạo của sách giáo khoa này có thể tóm tắt lại ở ba điểm sau. Vào năm 1935-1936 có diễn ra sự sửa chữa sách giáo khoa nhưng cũng có thể coi đây là kì thứ 5.

(1) Ngay cả trong trường tiểu học thông thường, tri thức địa lý thế giới được coi trọng. phân lượng dành cho địa chí nước ngoài trong thời kì thứ 2 chỉ có 17 mục nhưng trong sách giáo khoa thời kì thứ 3 đã là 43 mục và đến thời kì thứ 4 là 82 mục.

Có vẻ như đây là sự chuyển hướng từ việc lấy trung tâm là địa lý Nhật Bản thời Minh Trị sang địa lý thế giới nhưng khi nhìn vào nội dung thì không phải vậy. Việc coi trọng địa lý thế giới như trên là dựa trên tư duy “cùng với việc làm cho học sinh hiểu được vị trí của nước ta trên thế giới và có quan niệm đúng đắn cần nuôi dưỡng tinh thần quốc dân sâu sắc hơn nữa”. Đó là những nơi có mối quan hệ sâu sắc với “nước ta” như Châu Á, Châu Âu, Bắc Mĩ. Giáo dục địa lý nước ngoài không phải là nhằm lý giải sự đa dạng của từng nước, từng khu vực mà là nhằm giáo dục sự hiểu biết về vị trí thế giới của Nhật Bản và tinh thần quốc dân. Vì vậy, ngay cả trong bản thân châu Á, “Trung Quốc, Siberia, Ấn Độ, Đông Nam Á”được coi trọng nhưng Tây Á, Trung Á thì hoàn toàn bị làm ngơ. Những khu vực “chậm tiến” có mối quan hệ sâu sắc với tư cách là nguồn tài nguyên, thị trường của Nhật Bản và các nước tư bản “tiên tiến” theo chủ nghĩa đế quốc đã trở thành đối tượng chủ yếu của địa lý nước ngoài.

(2) Trong địa lý Nhật Bản, sách giáo khoa đã từ bỏ ghi chép địa chí theo từng phủ-tỉnh mà ghi theo từng tiểu mục theo từng khu vực với địa thế, sản vật, giao thông… Và thời gian càng gần thì dung lượng dành cho “sản xuất” càng lớn và đó là kết quả của sự phát kiển kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Tuy nhiên, địa chí Nhật Bản đã được tạo thành dưới hình thức cho học sinh học tập một bộ phận “quốc thế” của đất nước hơn là cho học sinh học tập về khu vực với tính đa dạng và độc lập.

(3) Với tư cách là chương trình (curriculumn),  bộ phận khái quát về Nhật Bản và thế giới với tư cách toàn thể tăng lên, các ghi chép địa chí về từng địa phương, khu vực được xen kẽ ở trong đó. Trong sách giáo khoa ở thời kì thứ 3 có các mục: a.  “Đại đế quốc Nhật Bản” (4 mục); b. Nhật Bản và địa chí các thuộc địa của nó (130 mục), c. “Tổng thuyết về Đại đế quốc Nhật Bản” (10 mục); d. Địa chí từng châu của thế giới (43 mục); e. “Thế giới và Nhật Bản” (3 mục); f. “Bề mặt địa cầu” (5 mục).

 

Trong chương “Đại đế quốc Nhật Bản” có ghi “Đại đa số quốc dân là dân tộc Yamato với số lượng lên tới 54 triệu. Ngoài ra ở Triều Tiên có chừng 16 triệu người Triều Tiên; ở Đài Loan có hơn 10 vạn người bản xứ và ở Mãn Châu có khoảng 3 triệu người dân tộc Trung Quốc chuyển từ Trung Quốc đến sinh sống. Thêm nữa, ở Hokkaido có người Ainu, ở Karafuto có người Ainu và người bản xứ khác. Dân tộc mặc dù khác nhau nhưng đều là thần dân trung lương của đế quốc một cách bình đẳng”.

 

Sách giáo khoa từ kì thứ 5 trở đi thì thêm vào “vùng đất thống trị ủy nhiệm của chúng ta”. Nội dung viết: “Từ đường Xích đạo tính xuống phía bắc toàn bộ vùng đất vốn thuộc của Đức, tức là quần đảo Carolin-toàn bộ quần đảo Marshell và  đại bộ phần quần đảo Mariana với tư cách là kết quả của đại chiến thế giới đã thuộc quyền thống trị của nước ta”.

 

(còn tiếp)

Bản dịch sách giáo khoa lịch sử lớp 6 Nhật Bản (III)

August 5, 2013 Leave a comment

2. Xây dựng đất nước học từ đại lục

Đúc  đại tượng Phật

Năm 752, tại Todaiji ở Heijokyo (tỉnh Nara), kinh đô đương thời,  đã diễn ra nghi thức khai nhãn cho đại tượng Phật rất hoành tráng. Trong ánh mắt dõi theo của hơn 1 vạn nhà sư và quý tộc, cao tăng Ấn Độ đã khai nhãn cho tượng Phật khổng lồ cao 16m và nói lời chúc mừng công việc hoàn thành. Tại sao người ta lại tạo ra đại tượng Phật này? Vào khoảng thế kỉ thứ VIII, ở kinh đô bệnh dịch truyền nhiễm lan rộng, ở các địa phương cũng diễn ra các cuộc giao tranh của quý tộc và tình hình trở nên hỗn loạn. Vì vậy Thiên hoàng Shomu đã suy nghĩ tới việc dùng sức mạnh của Phật giáo để an dân và bảo vệ đất nước bằng việc ra lệnh  tạo ra đại tượng Phật ở kinh đô và các Kokubunji (Quốc phân tự)  ở các địa phương.

 

Thiên hoàng  đã ra lệnh cho toàn quốc tập trung về kinh đô các nguyên vật liệu với số lượng lớn cần thiết cho chế tạo tượng Phật và rất đông nông dân cần cho công việc này. Bên cạnh đó, cũng cử con cháu của những người Toraijin từ Triều Tiên là những người có kĩ thuật cao làm chủ nhiệm công trường. Trải qua một thời gian dài đến năm thứ 9 cuối cùng đại tượng Phật cũng hoàn thành.

Lý tưởng của thái tử Shotoku

Trước khi Thiên hoàng nắm được quyền lực lớn đã có những  động thái nào?

Vào khoảng thế kỉ 6 các hào tộc của triều đình Yamato đã tranh chấp với

nhau xung quanh cách tiến hành chính trị. Trong bối cảnh đó, Thái tử Shotoku, người trở thành Chấp chính đã vừa hợp tác với dòng họ Soga có thế lực lớn trong triều vừa nhắm tới việc tạo nên quốc gia với Thiên hoàng là trung tâm để tiến hành cải cách chính trị.

Thái tử đã xác lập Hiến pháp 17 điều và chỉ ra điều kiện của các chức dịch hướng tới xây dựng đất nước với Thiên hoàng là trung tâm. Bên cạnh đó, tạo ra cơ cấu dựng nên các chức dịch một cách tích cực từ các hào tộc có năng lực không kể gia thế.

Thêm nữa, Thái tử cũng phái Onono Imoko đi sứ sang Trung Quốc (nhà Tùy) lúc bây giờ đang mạnh và học văn hóa, cơ cấu chính trị của Trung Quốc tiên tiến. Ngoài ra, Thái tử còn cho xây dựng Horyuji và phát triển Phật giáo.

Khi Thái tử qua đời, thế lực của họ Soga mạnh lên nhanh chóng và biến Thiên hoàng thành bù nhìn. Nakano Oenoji (về sau là Thiên hoàng Tenji) và Nakatomino Kamatari (về sau là Fujiwara no Kamatari)-những người muốn tái lập quốc gia với Thiên hoàng là trung tâm đã tiêu diệt dòng họ Soga vào năm 645. Sau đó cùng với những học sinh trở về từ Trung Quốc họ  đã nhắm tới việc tạo ra cơ chế chính trị mới với quyền lực mạnh của Thiên hoàng. Vào năm này, lần đầu tiên niên hiệu Taika được xác lập vì vậy người ta gọi cải cách này là cải cách Taika.

Mokkan  kể lại cuộc sống của con người

Từ di tích Heijokyo ở tỉnh Nara, người ta đã tìm thấy rất nhiều các Mokkan  (tấm thẻ bằng gỗ) có ghi dòng chữ như “Tảo nước Hokino”, “Sen nước Musashi”, “Muối nước Shiono. Những “Mokkan” này được dùng vào việc gì? Thêm nữa, tại sao chúng lại được tìm thấy ở đây?

Heijokyo vào đầu thế kỉ VIII được xây dựng từ mô hình học từ Trung quốc. Chiều rộng Đông-Tây là 6km, Nam-Bắc khoảng 5km, ở giữa có con đường lớn gọi là Suzakuoji rộng tới 70m. Đây là kinh đô lớn với khoảng 1 vạn quan lại và 20 vạn dân sinh sống.

Bữa ăn của quý tộc (quan lại cấp cao) sống ở Heijokyo rất xa hoa với  gạo trắng, súp tảo biển, cá Ayu nướng muối, đậu, hạt dẻ, cam….Trong khi đó, người dân thường thì chỉ có gạo đen, rong biển,muối. Những thức ăn này được chuyển tới từ khắp các địa phương trên toàn quốc. “Mokkan” là thẻ để ghi lại các vật phẩm được quy định khi chúng được chuyển từ địa phương tới kinh đô.

Thứ tạo nên cuộc sống của kinh đô là các sản vật từ các địa phương. Người nông dân phải nộp thuế bằng các sản vật của địa phương, thóc gạo và  họ phải vận chuyển chúng đến kinh đô. Bên cạnh đó, họ còn phải tham gia xây dựng ở kinh đô xa xôi, làm lính bảo vệ kinh đô hay Kyushu và chi phí đi về cùng lương thực họ phải tự chịu.

Trong tập thơ “Vạn Diệp tập” được biên soạn vào thế kỉ VIII có những bài thơ diễn tả tiếng than khóc của người nông dân về gánh nặng thuế khóa và cuộc sống cùng những tình cảm đối với gia đình.

Cuộc hành trình hiểm nguy sinh mạng của Kanjin (Giám Chân)

Vào khoảng thế kỉ thứ VIII, triều đình muốn có cao tăng truyền bá chính xác những lời dạy của  Phật giáo nên đã gửi sứ tời nhà Đường (Trung Quốc), Đáp lại lời mời này, Kanjin đã đến Nhật Bản. Đương thời, để đi đến Nhật Bản phải trải qua con đường trên biển rất nguy hiểm. Tuy nhiên, Kanjin khi nghe về câu chuyện nhà sư Gyoki hoạt động nhằm đúc Đại tượng Phật và châu chuyện truyền bá đạo Phật ở kinh đô Nara, đã quyết tâm tự mình đến Nhật Bản bất chấp những lời phản đối từ xung quanh.

Kanjin trên đường đi đã bao lần vượt biển thất bại vì gặp bão, bệnh tật trên đường đi. Gian khổ chồng chất khiến cho đôi mắt của Kanjin bị lòa nhưng quyết tâm đến Nhật cuối cùng cũng thành công vào lần vượt biển ở năm thứ 12. Kanjin đã lập chùa Toshodai-ji ở kinh đô Nara và có vai trò lớn đối với việc phát triển Phật giáo Nhật Bản.

Bên cạnh đó, triều đình cũng cử rất nhiều đoàn sứ, lưu học sinh đến nhà Đường để học chế độ chính trị, văn hóa của Trung Quốc. Những người này đã liều mạng vượt biển và truyền văn hóa Trung Quốc vào Nhật Bản.

Ở Shosoin của Todaiji có lưu giữ các di vật được truyền đến Nhật Bản vào thời gian này. Trong đó không phải chỉ có các vật của Trung Quốc mà còn có cả những vật tiếp nhận ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ, Péc-xích (hiện nay là Iran) với số lượng lớn và từ đó cho ta thấy sự giao lưu văn hóa ở trên phạm vi rộng lớn đã trở nên phổ biến.

Cuộc sống của quý tộc và văn hóa kiểu Nhật

Kinh đô mới là Heiankyo ở Kyoto được xây dựng thay cho Heijokyo. Tại kinh đô diễn ra sự tranh chấp giữa các thế lực quý tộc có quyền lực, trong đó dòng họ Fujiwara tăng cường quan hệ với Thiên hoàng đã dần trở thành kẻ  có quyền lực lớn.

Vào khi dòng họ Fujiwara cực thịnh, Fujiwara Michinaga đã đem con gái gả cho Thiên hoàng và mời đông đảo quý tộc đến chúc mừng. Khi đó, ông ta đã đọc bài thơ “kono yo o ba wagayo to omoeba”. Nghĩa là thế gian này là của ta, giống như mặt trăng tròn không thiếu chi cả.

Trong thời đại quý tộc có cuộc sống xa hoa này, văn hóa mang đặc trưng của Nhật Bản đã được tạo ra. Quý tộc sống trong các ngôi nhà lớn gọi là Shindendukuri, và thưởng thức các nghi lễ theo mùa, thơ ca, khiêu vũ. Tranh ở trong các ngôi nhà quý tộc là các tranh Yamato vẽ cảnh sinh hoạt của quý tộc.

Cho đến lúc này ở Nhật Bản chỉ viết văn sử dụng duy nhất chữ Hán truyền đến từ Trung Quốc. Trong thời kì này, chữ Hiragana tạo thành từ chữ Hán nghiêng đổ và chữ Katakana lấy từ một bộ phận của chữ Hán đã hoàn thành và việc viết văn trở nên dễ dàng hơn. Các tác phẩm như “Genji Monogatari” của Murasaki Shikibu, “Makura no Soshi” của Seisho Nagon cũng được viết bằng chữ Kana vào khoảng thời gian này. Các tác phẩm này đã phác họa tình cảm tinh tế của con người, cuộc sống của quý tộc bằng thứ văn chương đẹp đẽ và được đánh giá cao ở nước ngoài với tư cách là tác phẩm văn học ưu tú của Nhật Bản.

 

 Nguyễn Quốc Vương dịch
(còn tiếp)

Quyền sở hữu đất đai ở Nhật Bản thời trung đại: Vai trò của các chùa Phật giáo và tự viện (2)

July 7, 2013 Leave a comment

Quyền sở hữu đất đai ở Nhật Bản thời trung đại: Vai trò của các chùa Phật giáo và tự viện

Bản quyền 2007 của ADOLPHSON VÀ RAMSEYER.

 Nguyễn Quốc Vương dịch từ tiếng Việt

B. Kiện tụng

Bằng hai cách, các ngôi chùa cũng tạo điều kiện thuận tiện cho việc thực thi hòa bình quyền sở hữu đất đai. Thứ nhất, chúng cung cấp tòa án cho các cư dân. Trên thực tế, bằng sự miễn thuế và sự bảo vệ bằng quân sự mà chúng cung cấp, chùa và tự viện đã thực thi dịch vụ xét xử các tranh chấp đất đai nội bộ. Bởi vì đất đai của chùa phần lớn được miễn trừ khỏi sự can thiệp của chính phủ (fuyu menden), nên khi  các cư dân (hay các nhà quyền quý khác) không đồng ý với quyền lợi của họ đối với thu hoạch họ sẽ hướng về ngôi chùa nắm vùng đất đó.

Các ngôi chùa không phải là cơ quan duy nhất cung cấp dịch vụ xét xử. Dưới tay chính quyền Kamakura, cơ quan mạc phủ đôi khi gửi đi các đoàn võ sĩ như là đại diện (được biết đến như là jito) tới các trang viên được miễn thuế. Đôi khi, các đại biểu này gây ra tranh chấp với những người sở hữu các trang viên bằng việc từ chối tiến hành sự chia sẻ truyền thống đối với thu hoạch. Và khi họ làm như vậy, người nắm trang viên và các đại biểu đôi khi đã giải quyết tranh chấp bằng cách cắt trang viên làm hai về mặt địa lý (shitaji chubun)

Tuy nhiên trong quá trình thay mặt chính phủ, các đại diện này đôi khi cũng tự mình cung cấp dịch vụ xét xử. Vở kịch thời trung đại (Kyo gen) Oko và Sako đã minh họa quá trình này. Người nông dân Oko nhận ra rằng con bò cái của nhà hàng xóm Sako đã ăn và dẫm nát ruộng lúa nhà mình. Khi Sako từ chối đền bù thiệt hại, Oko đe dọa kiện. Vở kịch diễn tiến như sau: người vợ thông minh của Oko đã hướng dẫn chồng mình các mưu chước kiện tụng và sau đó là sự đối đầu giữa bà ta và Sako và khép lại với sự cầu xin thống thiết của Sako đối với khán giả khiến họ bật cười -chúng ta hãy nhớ lại sự cầu xin của Canio trong Pagliacci- (Ramseyer, 1995).

Thứ hai, các ngôi chùa thực thi đòi hỏi của trang viên chống lại những kẻ bên ngoài trong các phiên tòa của triều đình và mạc phủ. Việc kiện tụng rất tốn kém, tiêu tốn thời gian và đòi hỏi biết đọc biết viết và kĩ năng được hình thành thông qua kinh nghiệm. Những chủ đất khiêm tốn không có tiềm lực để đáp ứng kiện tụng hoặc là có người tinh thông để theo đuổi vụ kiện có hiệu quả. Do có nhân sự nòng cốt với học vấn cao và là người tham gia liên tục, chủ yếu, các ngôi chùa và tự viện đã cung cấp cả hai thứ trên.

C. Những mối đe dọa:

1. Các elite: Các chủ đất cần sự giúp đỡ để chống lại ba nhóm: các elite ở kinh đô, các võ sĩ cấp tỉnh và những tên cướp và các quan nhiếp chính địa phương của chính họ[1]. Mối quan tâm đầu tiên là các elite ở kinh đô. Năm 1092, hai người thuộc dòng họ Fujiwara (một người là cháu của quan nhiếp chính đương quyền) đã sai khiến  các tùy tùng quấy rối và giết các viên chức trên vùng đất của một đền thờ thần đạo là chi nhánh của chùa Enryaku-ji. Khi Enryaku-ji đe dọa phản kháng, triều đình đã chấp nhận trừng phạt cả hai. Trên thực tế, triều đình chỉ đưa ra sự trừng phạt nhẹ, vì vậy ngôi chùa đe dọa lần nữa và triều đình đã đày hai người tới các tỉnh ở xa[2]. Gần như là cùng thời gian, thống đốc của tỉnh Omi đã chộp lấy sự kiểm soát đối với vùng đất của đền thờ thần đạo là chi nhánh của chùa Kofuku-ji. Ngôi chùa đã phái hàng ngàn nhà sư tới kinh đô và triều đình đã trục xuất viên thống đốc đi xa.[3]

Mặc dù các ngôi chùa và tự viện đầy quyền lực e ngại tấn công Elite ở Kyoto bằng lực lượng quân sự, họ đã chỉ rõ rằng họ không hề ngần ngại tấn công các địch thủ tôn giáo. Vào thế kỉ 13, Kofuku-ji nhận ra mình đang ở trong cuộc tranh chấp quyền sở hữu nguồn nước với Iwashimizu Hachimangu một ngôi đền thần đạo đầy quyền lực và độc lập ở Kyoto. Một vài người đàn ông từ trang viên Iwashimizu tấn công và giết chết những người nông dân ở trang viên Kofukuji, đổi lại các nhà sư của Kofukuji đã giết những người ủng hộ Iwashimizu và tra tấn 60 gia đình, và những người của Iwashimizu đã giết chết nhiều đầy tớ của Kofukuji. Có vô vàn tranh chấp diễn ra tại triều trình và mạc phủ. Nhưng trong số các cuộc tranh chấp và kiện tụng thì những tranh chấp về nguồn nước vẫn duy trì và trận chiến còn tiếp tục ít nhất nửa thế kỉ tiếp theo[4].

Các tranh chấp có thể làm các ngôi chùa dính vào các cuộc tranh giành vô cùng nguy hiểm. Ví dụ như vào năm 1176, thống đốc của tỉnh Kaga và em ông ta trộm cắp ở trang viên Enryakuji và tra tấn một vài gia đình. Khi triều đình từ chối trừng phạt họ, Enryakuji đã phái các nhà sư của mình  vào kinh đô (ghi chép của triều đình cho biết số nhà sư lên đến 2000). Nhiều người chết trong các trận bao vây nhưng cựu hoàng đế Go-Shirakawa khăng khăng rằng đất đai đó không thuộc về ngôi chùa mà nó thuộc về triều đình.

Enryakuji không chịu nhượng bộ. Dưới áp lực không ngừng của chùa, cuối cùng Go-Shirakakawa đã lưu đày viên thống đốc. E sợ rằng ông ta xuất hiện và dọa dẫm, cựu hoàng đế cũng cách chức trụ trì chùa Enryakuji, tịch thu vùng đất đai đó (bao gồm cả những vùng đất mà ngôi chùa sở hữu), và ra lệnh đày đi xa sư trụ trì. Trên đường lưu đày các nhà sư của chùa Enryakuji đã chặn đường đoàn dẫn giải và phóng thích ông ta. Khi Go-Shirakawa lệnh cho họ giao nộp trụ trì để xử phạt, chùa đã từ chối.

Đối với Go-Shirakawa thì điều này dường như trở thành một trong những hành động khó có thể tha thứ. Go-Shirakawa đã triệu Taira Kiyomori (vào thời gian đó có lẽ là nhân vật có quyền lực nhất ở Kyoto) và lệnh cho ông ta bao vây ngôi chùa. Thật ngẫu nhiên, Kiyomori phát hiện ra một âm mưu chống lại ông ta do một số tùy tùng cao tuổi của Go-Shirakawa tiến hành. Từ bỏ Enraykuji, ông quay sang các tùy tùng này, bắt giữ họ và sau đó giết nhiều người trong số đó. Việc bao vây chùa Enryakuji chưa bao giờ trở thành hiện thực.[5]

2. Các võ sĩ địa phương

Các chủ đất cũng cần sự bảo vệ để chống lại trộm cướp và các võ sĩ cấp tỉnh hoặc võ sĩ ở thứ bậc thấp hơn. Ví dụ như vào năm 1171, lính cận vệ đi cùng Go-Shirakawa đã cố gắng chiếm đoạt một trong những trang viên của Kofukuji và giết chết người quản lý trong cuộc tấn công này. Ngôi chùa kiện lên hoàng đế đã nghỉ hưu và ông ta xác nhận quyền của ngôi chùa đối với vùng đất đó. [6]

Sự tranh chấp phức tạp hơn có liên quan đến dòng họ võ sĩ Sato. Vào giữa thế kỉ 12, dòng họ Sato xâm lược trang viên của Fujiwara. Khi Fujiwara phàn nàn, dòng họ Sato đã chuyển sự cướp bóc của mình sang các trang viên lân cận do bà con hoàng gia sở hữu. Go-Shirakawa cố gắng can thiệp nhưng Sato hoàn toàn lờ đi những mệnh lệnh của ông ta.

Bị bao vây người thân thích của hoàng gia này đã phó thác đất của mình cho chùa Koya (trên đỉnh Koya-Người dịch). Bà ta nghĩ rằng những gì cựu hoàng đế không làm được thì ngôi chùa này có thể sẽ làm được. Chùa đã làm được nhưng không phải là không cần đến nỗ lực đáng kể. Trước hết nó phải giải quyết với viên thống đốc tham lam bởi vì trong năm 1160 một tùy tùng cao tuổi của Taira đã giành được vị trí này và bắt đầu xâm phạm giới hạn trang viên của bà ta. Khi Koya cử tới người đại diện, viên thống đốc đã chống lại với hàng trăm võ sĩ những người đã đốt cháy nhà cửa và bắt giữ những người nông dân địa phương. Phải đến năm 1163 Koya mới có thể chấm dứt các cuộc tấn công vào vùng đất của mình. [7]

Một thế kỉ sau, một đại diện của mạc phủ (jito) ở trang viên thuộc sở hữu của ngôi chùa Jikurakuji đã chấm dứt việc chuyển phần chia thu hoạch cho ngôi chùa và ép buộc những người trong làng làm việc cho ông ta (họ sẽ bị cắt mũi và tai nếu từ chối). Ngôi chùa đã giúp những người nông dân viết đơn thỉnh nguyện tới Mạc phủ. Tuy nhiên, trái với hy vọng của Jikurakuji, Koya đã tiến hành mở rộng bàn tay đối với vùng này (không hề có đòi hỏi hợp pháp nào) và bản thân liên minh với dòng họ làm đại diện cho Mạc phủ. Cũng như thế, vào đầu thế kỉ 14 Koya và dòng họ làm đại diện cuối cùng đã giành được sự kiểm soát hợp pháp đối với vùng này. [8]

3. Sự xấc xược trung gian

Cuối cùng, các chủ đất cần sự giúp đỡ trong việc ép các  đại lý của chính mình nộp cho mình phần thu hoạch thích đáng. Để làm được điều đó, họ tranh thủ sự giúp đỡ của chùa (thông qua sự phó thác) nhưng đôi khi thậm chí cả chùa cũng gặp khó khăn trong việc thu phần thu hoạch. Sự xấc xược trung gian là mối nguy cơ trong bất cứ tổ chức phức tạp nào, và nó là một vấn đề của các trang viên Nhật Bản trung đại. Những nguyên đơn không phải là người địa phương đối với vùng đất (như những người ủy nhiệm) không thể giám sát hoàn toàn những gì mà những đại lý địa phương (ví dụ như người quản lý cấp tỉnh, những người nông dân…) và cũng chỉ có thể cưỡng ép họ làm ở một mức độ nào đó. Họ chỉ có thể tới đó trong chuyến đi vài ngày trong khi các nhân viên của họ thì luôn ở đó và đôi khi được vũ trang hạng nặng. Những người làm đại lý này có thể báo cáo rằng mùa màng thất bát và họ có thể ấn định thuế mới cho chính họ, họ cũng có thể chiếm đoạt vùng đất đó cho chính họ và họ cũng dễ dàng quyết định không trả thuế.

Ví dụ như dòng họ Sasaki đã quản lý một trong những trang viên của Enryakuji. Vào cuối thế kỉ 12, họ bắt đầu từ chối nộp phí cho chùa. Khi chùa phái người đại diện tới, Sasaki đã giết vài người trong số đó. Ngôi chùa cầu xin Mạc phủ Kamakura nhưng Sasaki lại là một trong những người ủng hộ mạc phủ mạnh nhất. Thạm chí vào năm 1235, các tư liệu đã chép rằng dòng họ Sasaki đã giết một đại diện của Enryakuji được phái tới thu phí (Adolphson, 2007b: 63-64).

Koya cũng đối mặt với vấn đề tương tự. Năm 1240, một trong những nhân viên địa phương của nó bày mưu cùng với một viên chức (một jito) của mạc phủ Kamakura là Taira no Nagayasu. Họ đã cùng nhau lái nguồn nước từ một trang viên của Koya tới vùng đất của chính Nagayasu-một vài trong số đó có thể nằm trên trang viên của chùa. Khi nhân viên của Koya chết, Nagayasu tuyên bố đất của Koya là đất của ông ta. Koya đã nỗ lực với đủ mọi mưu chước để khôi phục đất đai và nguồn nước nhưng không có nỗ lực nào thành công.

Khi nó được đưa ra đàm phán, Nagayasu đã ăn trộm thu hoạch vào ban đêm. Khi nó bị kiện, triều đình đã mất nhiều năm và sau đó quyết định việc tố tụng chống lại Koya. Cuối cùng các cư dân từ trang viên Koya đã sử dụng vũ lực. Hai thập kỉ sau phán quyết khó chịu của triều đình, những người đàn ông từ trang viên của Koya liên tục xâm lược các vùng đất lân cận và giết các cư dân ở đó. Các tư liệu không nói cuối cùng Koya có thu hồi lại được vùng đất và nguồn nước của mình hay không. [9]

Một vài  người làm đại lý có vẻ  đã tỏ ra dứt khoát dựa trên luật. Take Kakunin, người lần đầu tiên xuất hiện trong các ghi chép của Todaiji như người quản lý trang viên vào năm 1127. Thay mặt cho chùa, ông ta đã mở rộng vùng đất của nó một cách rất hung hãn-tạo ra những phàn nàn từ cả phía những ngôi chùa, đền thờ thần đạo khác và cả phía thống đốc địa phương. Tuy nhiên chính bản thân ông ta cũng lại trộm cắp đất công và đất từ Todaiji.

Những lời phàn nàn đã đẩy Kakunin tới tòa vài lần nhưng ông ta dường như  trước sau như một đều thoát khỏi sự trừng phạt. Sinh ra một Taira, ông ta đã duy trì một chỗ dựa quyền lực mạnh mẽ trong số các võ sĩ và viên chức địa phương và khi ông ta xâm lược các trang viên ông ta thường tới cùng với các võ sĩ Taira. Rõ rằng rằng ông ta là lực lượng mà Todaiji không thể đối phó. Bất chấp việc trộm cắp của chùa ông ta vẫn đều đặn thăng tiến trong thứ bậc quan liêu. Khi ông ta chết, vợ ông ta (một nữ tu sĩ) tiếp tục mưu chước của ông ta. Todaiji đã phàn nàn rằng bà ta đã chiếm quyền sở hữu đối với một trang viên của chùa.[10]

Biết được những rắc rối mà những người đại diện có thể gây ra, Koya đã cố gắng bó buộc sự tự do. Những đại diện của nó đã không từ bỏ nó một cách sẵn lòng. Dòng họ Sakamoto đã quản lý một trang viên ở tỉnh Kii cho Koya vào thế kỉ 11. Khi Koya cố gắng  lên tiếng đòi lại sự kiểm soát, người đứng đầu dòng họ Kakamoto đã giết đại diện của Koya. Koya đánh lại và lần này thành công. Koya đã tịch thu 200 acres (1 Ác-rơ=0,4hec ta) từ tay dòng họ này và 30 năm sau khi một sự kiện tương tự xảy ra Koya đã tịch thu toàn bộ[11].

III. Sự đòi hỏi mang tính hợp đồng

Các ngôi chùa có thể đã phát triển sức mạnh quân sự để bảo vệ các trang viên của mình và thu hút sự ủy thác nhưng họ đã sử dụng nó cả vào những việc khác. Nói cụ thể hơn, họ bắt đầu sử dụng nó để bảo vệ các thương nhân và thợ thủ công. Bằng vô số các trang viên, nhưng ngôi chùa lớn đã trở thành các chủ đất không phải chỉ vì có nông dân mà còn vì có các thương nhân và  nhà tư bản chớm nở. Những người này cũng cần sự bảo vệ chống lại những nhà quyền quý thù địch và cần tới năng lực ép những đối tác hợp đồng phải thực thi lời giao ước. Bằng nhiều cách, những ngôi chùa lớn đã đa dạng hóa công việc này.

Do vị trí của mình, Enryakuji đã chi phối thị trường Kyoto trong khi Kofukuji chi phối Nara. Vào những năm 1280, Enryakuji đã tiến hành dịch vụ pháp lý cho 80% người ủ  rượu và những người cho vay tiền (Adolphson, 2000: 328). Nói chung, những người ủ rượu và những người điều hành nhà kho thường tích lũy vốn để có tiền cho vay. Thông qua các khoản tiền vay này họ đã đầu tư nhiều cho sự mở rộng thương mại ở nhiều thế kỉ tiếp theo.

Đối với những người cho vay tiền này, Enryakuji đã cung cấp dịch vụ đảm bảo thực thi hợp đồng. Nếu như một con nợ bị vướng nợ một chủ ủ rượu, lực lượng quân sự của Enryakuji sẽ  đảm bảo rằng anh ta sẽ trả. Trên thực tế, theo tính toán của nhà sử học Hitomi Tonomura (1992: 24), ngôi chùa đã đóng vai trò như là nhà bảo trợ cho một số lượng lớn những người cho vay tiền ở Kyoto.

Kofukuji đã cung cấp một loạt các dịch vụ tương tự cho các thương nhân Nara (Adolphson, 2000: 330). Biết rằng Kyoto là thành phố lớn hơn và Enryakuji cần phải đóng vai trò lớn hơn. Mặc dù vậy Kofukuji cũng đóng vai trò là nhà bảo trợ cho 85 phường hội khác nhau. Những phường hội này cung cấp các hàng hóa và dịch vụ phong phú như rượu, cá, đậu phụ, giấy và gái điếm. [12]

Nếu các ngôi chùa sử dụng sức mạnh quân đội thường xuyên để bòn rút số tiền dựa trên giá trị thị trường của dịch vụ mà họ cung cấp thì số tiền phải trả tức thời hiếm khi gây ra vấn đề. Mặc dù Enryakuji và Kofukuji là các cơ sở tôn giáo địa phương quyền lực nhất, họ không phải là duy nhất. Có lẽ, sự hiện diện của các đối thủ cạnh tranh trong thị trường cung cấp dịch vụ chính phủ đã ngăn chặn họ tranh khỏi sự cho phép bản thân sa vào bản năng cướp bóc.

IV. Kết luận

Chùa phật đã đóng một vai trò chủ yếu trong việc thực thi quyền sở hữu ruộng đất trong Nhật Bản trung đại. Đó không phải là vai trò sinh ra từ học thuyết hay sự sùng bái. Nó là vai trò sinh ra từ sự miễn thuế của nó, một sự miễn thuế mà các chùa và tự viện trao cho để  đổi lấy sự phó thác ruộng đất. Với một số lượng lớn các nhà sư và những người phục vụ, các ngôi chùa có thể cung cấp cảnh sát, xét xử và dịch vụ pháp lý. Trên thực tế, các ngôi chùa và tự viện đã cạnh tranh lẫn nhau để giành lấy sự phó thác ruộng đất bằng việc cung cấp cả việc tiếp cận miễn thuế và sự đảm bảo đối với vùng đất được phó thác.

Thị trường dành cho chính phủ tư này là một thực thể của Nhật Bản trung đại-và chỉ ở thời kì trung đại. Các chùa và tự viện bắt đầu nhận việc phó thác đất đai sau khi chính phủ chuyền tới Kyoto vào cuối thể kỉ 8. Quá trình này chấm dứt vào 7 thế kỉ sau khi quốc gia rơi vào cuộc nội chiến và các ngôi chùa, tự viện không còn khả năng cung cấp sự đảm bảo đáp ứng yêu cầu của chủ đất nữa.

Vào khoảng năm 1500, thị trường này đã biến mất. Trong suốt cuộc nội chiến thế kỉ 16, các ngôi chùa và tự viện đã không thể cung cấp  sự đảm bảo đầy đủ. Trong thời kì hòa bình sau 1600, chúng không thể  hứa hẹn các quyền như là sự đảm bảo mà các nhà nước cung cấp. Dưới chính thể Tokugawa mới (1600-1868), chính phủ ở Tokyo (lúc đó gọi là Edo) đã duy trì một cấu trúc liên bang dựa trên các chính phủ quân sự lãnh địa. Đổi lại, với lãnh địa riêng của mình những chính phủ này đã giữ được sự kiểm soát chặt chẽ hơn bất cứ chính phủ nào trong Nhật Bản trung đại.

Trước duy tân Minh Trị năm 1868, thị trường mà chúng tôi đã miêu tả đã đi được 4 thế kỉ. Hiển nhiên, nó không thể giải thích sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục theo sau sự duy tân đó. Sự giải thích (hay một phần của nó) nằm ở các chính sách của Tokugawa và Minh Trị (1868-1912) đã bảo vệ và kiến thiết sự đầu tư vào tư bản vật chất và con người: trong hải quan, luật và tòa án – thứ đã thực thi các quyền và giao dịch liên quan đến các nguồn tài nguyên quý hiếm (Ramseyer, 1996). Nếu như tồn tại một mối liên hệ giữa thị trường trung đại mà chúng tôi đã miêu tả và sự tăng trưởng trong thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, nó không thể nằm trong bất cứ thứ gì trực tiếp.

Thay vào đó, có lẽ mối liên hệ giữa thị trường trung đại đối với các dịch vụ chính phủ và sự tăng trưởng hiện đại nằm ở bản thân truyền thống cạnh tranh của nó. Thế giới tôn giáo Nhật Bản trung đại  là một thế giới đa học thuyết: một thế giới ở đó một số lượng lớn các trường phái và môn phái cạnh tranh tín đồ và nhà bảo trợ, và ở đó các tín đồ và nhà bảo trợ  có thể lựa chọn-và tái lựa chọn các trường phái,  môn phái khi tình thế đặt ra đòi hỏi. Thế giới của các elite chính trị là một thế giới đa thỉnh nguyện: một thế giới ở đó dòng họ hoàng gia duy trì ở trung tâm nhưng trong đó một số lượng lớn các dòng họ khác và cá nhân khác cạnh tranh kiểm soát triều đình và bản thân dòng họ hoàng gia đó và hướng tới các ngôi chùa để tìm kiếm vốn văn hóa (các lễ kỉ niệm, nghệ thuật, cầu nguyện…). Thế giới quyền lực của chính phủ là thế giới nhiều người cung cấp: như chúng tôi đã giải thích trong bài báo này, một thế giới ở đó các ngôi chùa và các tự viện cạnh tranh với chính phủ thực sự để cung cấp các dịch vụ chính phủ cơ bản. Và thứ quyết định đối với sự  tăng trưởng kinh tế thế kỉ 19-20 là đặc điểm cạnh tranh không ngừng của kinh tế Nhật Bản.

Hết


[1] Những hiểu biết gần đây cho thấy quyền sở hữu đất đai được đảm bảo nhất nếu như người thình cầu có được sự thừa nhận của những người hàng xóm.

[2] Xem nguyên tác

[3] Xem nguyên tác

[4] Xem trong nguyên tác.

[5] Xem trong nguyên tác.

[6] Xem trong nguyên tác.

[7] Xem trong nguyên tác.

[8] Xem trong nguyên tác.

[10] Xem nguyên tác.

[11] Xem nguyên tác.

[12]  Adolphoson (2000: 330-31). Các dịch vụ được cung cấp bởi các ngôi chùa tất nhiên không được khuyến khích phát triển. Các ngôi chùa cũng bảo kê cho sự độc quyền và thu phí ở các đường lớn.

Quyền sở hữu đất đai ở Nhật Bản thời trung đại: Vai trò của các chùa Phật giáo và tự viện (1)

July 6, 2013 Leave a comment

Quyền sở hữu đất đai ở Nhật Bản thời trung đại: Vai trò của các chùa Phật giáo và tự viện

Bản quyền 2007 của ADOLPHSON VÀ RAMSEYER.

 Nguyễn Quốc Vương dịch 

Kinh tế tăng trưởng một khi những nhà đầu tư thu được sự đền đáp từ sự đầu tư của họ. Chúng tăng trưởng khi những người nông dân trồng trọt với sự xác quyết hợp lý rằng họ sẽ có vụ mùa bội thu; khi các thợ thủ công tin tưởng rằng họ có thể giữ lại quyền sử dụng các dụng cụ; khi các thương nhân buôn bán với sự tự tin rằng các đối tác của họ sẽ thực hiện giao kèo.

Nói một cách hoàn hảo thì các nhà đầu tư, những người nông dân, thợ thủ công và các thương nhân đạt được sự đảm bảo khi chính phủ phi cướp bóc thực thi những đòi hỏi của họ đối với những nguồn tài nguyên quý hiếm.

Thiếu vắng một chính phủ như thế, đôi khi những nhà đầu tư đã tạo ra một nhà nước riêng. Đôi khi những người nông dân và thợ thủ công thuê vệ binh và có khi những người thợ thủ công  buôn bán bên trong những nhóm thiểu số của họ. Nhưng trên hết, điều thường xảy ra là khi thiếu vắng một chính phủ như thế các nhà đầu tư sẽ không đầu tư, những người nông dân không trồng cấy (ít nhất không mở rộng sản xuất), những người thợ thủ công không đổi mới và các thương nhân không buôn bán.

Nhật Bản trung đại (1100-1600) có tăng trưởng-nhưng đó là sự tăng trưởng không có nhiều lắm sự hiện hữu của một chính quyền trung ương để thực thi những đòi hỏi của họ đối với các tài nguyên. Nó có hoàng đế, cùng với các quan nhiếp chính, cận thần, võ sĩ và cuối cùng là tướng quân và các quan nhiếp chính tướng quân. Nhưng những người này hiếm khi đem lại sự ổn định cho các công dân. Chắc chắn họ đã hiếm khi đem lại sự đảm bảo – thứ sẽ thuyết phục người dân đầu tư tài nguyên quý hiếm vào sự đầu tư thích hợp một cách dễ dàng hoặc tiến hành buôn bán đường dài. Đó không phải là những năm ổn định hay hòa bình. Đó là những thế kỉ của mưu đồ, giết người, thanh toán lẫn nhau và chiến tranh.

Nhưng dẫu thế,  nền kinh tế Nhật Bản vẫn tăng trưởng. Bất chấp sự hỗn loạn, người dân đã khai hoang các khu rừng. Họ cho  vay mượn tiền. Họ xây dựng các hệ thống tưới tiêu phức tạp và đắt đỏ. Họ xây dựng các cơ sở ủ rượu. Họ buôn bán các mặt hàng của họ tới những nơi ngày một xa hơn.

Để tìm kiếm sự ổn định mà họ cần để đầu tư và buôn bán, nhiều người đã chuyển hướng sang các ngôi chùa và tự viện. Để có được quyền đảm bảo đối với đất đai thực tế, ví dụ như, một địa chủ địa phương có thể “phó thác” đất đai của mình cho một ngôi chùa (hay tự viện)[1]. Thông qua quá trình này, ngôi chùa có được lợi nhuận thích hợp trong vùng đất (khấu trừ vào thu hoạch) và chủ đất được miễn thuế. Ít nhất và quan trọng là chủ đất có được khả năng kêu gọi ngôi chùa (và ngôi chùa cũng khuyến khích) bảo vệ đất đai của ông ta khỏi bàn tay của những người quyền quý khác. Các thợ thủ công và thương nhân cũng có được sự bảo hộ tương tự từ các phường hội được bảo trợ bởi các ngôi chùa. Họ chi trả thuế và chùa làm cho các hợp đồng của họ có hiệu lực.

Bên cạnh miễn thuế, các ngôi chùa và tự viện còn cung cấp cho chủ đất hai dịch vụ. Trước hết, chúng phân xử các cuộc tranh chấp trong nội bộ liên quan đến tài sản và buôn bán bằng quyền thực thi pháp lý của chúng. Thực sự là chúng đã cung cấp dịch vụ xét xử đối với các cư dân và những người khác trong vùng có thu lợi nhuận. Thứ hai, chúng bảo vệ đất đai trước sự đe dọa và xâm lấn từ bên ngoài. Một vài chủ đất tư nhân rất  có thể đã tự  bảo vệ tài sản của mình. Nhưng trong nhiều trường hợp, các ngôi chùa và tự viện lớn vốn kiểm soát các tài nguyên cần thiết phải làm như vậy để bảo vệ hiệu quả hơn.

Trong thực tế, các ngôi chùa và tự viện đã cạnh tranh với nhau để cung cấp cho chủ đất những gì mà chúng ta thường coi như là các dịch vụ cơ bản của chính phủ. Thực tế Nhật Bản trung đại đã duy trì một thị trường chính phủ tư nhân.

Cũng có thể, những sự dàn xếp được tạo ra đã đem lại cho các chủ đất một vài thứ gần với sự bảo vệ mà họ cần để cải thiện và duy trì đất đai của họ.[2]

I. Nhật Bản trung đại

A. Chính phủ:

Mặc dù Nhật Bản duy trì một chính phủ trung ương trong suốt từ thế kỉ 9 tới thế kỉ 15, nhưng nó không phải là một chính phủ ở đó quyền lực bắt nguồn chủ yếu từ cơ quan quan liêu. Thay vào đó, các elite cạnh tranh giành quyền lực thông qua các phương tiện khác. Các thiên hoàng trị vì từ kinh đô. Nhưng bị thao túng bởi dòng họ Fujiwara đầy quyền lực, vào khoảng thế kỉ 9 họ lên ngôi trước tuổi lên 10 và thoái vị trước tuổi 20. Kết quả là quyền lực trong Nhật Bản trung đại hiếm khi nằm ở bản thân thiên hoàng. Thay vào đó, chúng nằm trong tay các quan nhiếp chính Fujiwara. Các tộc trưởng Fujiwara đã dẫn dắt dòng họ vào quyền lực ngay khi kinh đô chuyển từ Nara tới thành phố mới ở Kyoto (được gọi là Heia-kyo) vào cuối thế kỉ thứ 8. Họ làm như vậy bằng cách gả các con gái cho gia đình hoàng gia, tự chỉ định mình làm các quan nhiếp chính và ép buộc các hoàng đế thoái vị sớm. Sự thành công của chiến lược đã chuyển thành mô hình cư trú ở rể giữa các elite. Bởi vì hoàng hậu của thiên hoàng (và con bà ta) sống với cha bà ta, các hoàng tử tìm kiếm người đàn ông trong gia đình mẹ để trao quyền-chứ không phải là người cha ruột. Bằng việc thuyết phục các thiên hoàng kết hôn với con gái dòng họ Fujiwara nhưng lên ngôi trước khi đủ trưởng thành để có thể cai trị độc lập, những người đứng đầu dòng họ Fujiwara có thể đảm bảo rằng họ-chứ không phải là bản thân các thiên hoàng-kiểm soát chính phủ.

Tuy nhiên, đúng vào lúc đó, chính sách này của Fujiwara vấp phải các thiên hoàng đã thoái vị-những đối thủ quyền lực nhất của dòng họ. Thoái vị khi ở vào giai đoạn sung sức của cuộc đời vào khoảng thế kỉ 11 các cựu thiên hoàng (nổi bật nhất là Shirakawa và Go-Shirakawa) bắt đầu làm việc chăm chỉ để gia tăng tài sản của hoàng gia. Trong quá trình này, họ cần phải công kích dòng họ Fujiwara.

Cũng tàn nhẫn như các cận thần Kyoto, các cuộc tranh giành của họ trở thành hoạt động thứ yếu không liên quan tăng lên. Vào khoảng thế kỉ 12, quyền lực được chuyển qua tay các dòng họ có vũ trang ở các tỉnh. Trong số những dòng họ này, những dòng họ thu hút các võ sĩ địa phương, những người đem lại các tùy tùng của riêng mình. Họ bắt đầu xung đột với nhau và với các nhóm võ sĩ khác và đôi khi vướng vào sự kình định giữa các elite ở Kyoto. Ban đầu, dòng họ Taira-đứng đầu là Taira Kiyomori- là dòng họ thành công hơn cả. Họ chiếm giữ vị trí nổi trội trong triều đình trong khi dòng họ Minamoto kém thành công hơn nắm giữ ở các tỉnh và thống nhất sức mạnh của mình.

Sự căng thẳng biến thành cuộc nội chiến vào năm 1180. Bằng các cuộc chiến tranh liên miên, cuối cùng Minamoto đã tiêu diệt được Taira. Ở Kamakura (phía nam Tokyo hiện nay), Minamoto Yoritomo sau đó đã thiết lập chế độ tướng quân (chính phủ). Có người cho rằng quyền lực thuộc về tay dòng họ Minamoto nhưng người khác sẽ cho rằng điều đó là sai. Bằng việc giết hại một cách có hệ thống những người thừa kế có quyền lực tiềm tàng nhất của dòng họ Minamoto, dòng họ Hojo (dòng họ vợ Yoritomo, mỉa mai thay lại chính là một chi nhánh của dòng họ Taira) đã nhanh chóng dẫn dắt quyền lực thuộc về mình. Dòng họ này xóa sổ dòng họ Minamoto, chỉ định các quan nhiếp chính của chính mình cho các tướng quân còn nhỏ tuổi và tiến hành cai trị. Trong nhiều thập kỉ, nó đã thay thế các tướng quân Minamoto với các nam thiếu niên từ dòng họ Fujiwara hoặc là từ dòng họ hoàng gia. Tóm tại trong phần lớn thế kỉ 13, thiên hoàng không có quyền lực trị vì ở Kyoto và chịu sự điều khiển của vị tướng quân bất hạnh ở Kamakura-người luôn phải thần phục quan nhiếp chính Hojo.

Các cuộc nổi loạn vẫn tiếp tục và vào khoảng giữa thế kỉ 14, chế độ mạc phủ Kamakura sụp đổ. Dòng họ Ashikaga sau đó đã lập nên chế độ mạc phủ của chính mình, chuyển chính quyền quân sự về Kyoto (tại Muromachi) và thống trị trong hai thế kỉ tiếp theo. Vào đầu thế kỉ 16, chính phủ này cũng tan rã và nội chiến xảy ra.

B. Các ngôi chùa chủ yếu

Trong thế giới cơ bản của phật giáo, Nhật Bản trung đại đã cung cấp cho đàn ông và phụ nữ  sự sắp xếp gần như làm người ta bối rối về các môn phái, chùa và tự viện. Các ngôi đền thần đạo gắn với tổ chức tôn giáo  Shinto bản địa (tiền phật giáo) cũng  đã cung cấp hệ thống nghi lễ bổ sung và thường là song hành với các chùa phật giáo. Trong số hàng ngàn cơ sở (mặc dù không phải là “tập đoàn” nhưng nhiều trong số đó là các thực thể tôn giáo tự trị có đất đai), có 4 cơ sở nổi trội: các ngôi chùa của Kofukuji và Todaiji, và các tự viện, chùa và đền thờ thần đạo trong tổ hợp ở núi Koya và Hiei.

Các elite ở kinh đô hướng về các ngôi chùa này để tìm kiếm một trật tự nghi lễ và tư tưởng. Trước tiên, từ trước đó vào thế kỉ 7, họ đã bắt đầu khai thác (lợi dụng) kinh “Golden Light”. Các vị phật, theo kinh phật, sẽ bảo vệ những người cai trị này những người ủng hộ phật giáo và sẽ làm cho quốc gia của họ thịnh vượng. Trải qua thời gian, ý tưởng mở rộng thành tư tương (obo buppo soi; Sự phụ phuộc lẫn nhau giữa vương pháp và phật pháp) thứ trói buộc chặt chẽ số phận của thế giới thế tục và thế giới tôn giáo: cho dù thế giới tôn giáo và thế tục phồn thịnh hay suy tàn, chúng cũng phải song hành. Thứ hai, các elite sử dụng các nghi lễ được cung cấp bởi các ngôi chùa để nâng cao hệ thống cấp bậc xã hội đang thịnh hành. Không chỉ việc ai có thể tham dự các nghi lễ nhất định mà thậm chí chi tiết hơn như trật tự khi ngồi tại các lễ tang thiên hoàng cũng có thể gây ra các vụ cãi cọ.

Cuối cùng, nhiều elite thành thật tin vào hiệu quả của các nghi lễ bí truyền của phật giáo. Các nghi lễ này hứa hẹn những lợi ích trần tục rộng rãi từ chữa trị bệnh tật, quyết định sự sinh nở những người con trai thừa kế tới việc đảm bảo sự phồn vịnh của gia đình. Ở cả hai mức độ cá nhân và quốc gia các chùa và tự viện phật giáo đã cạnh tranh lẫn nhau để cung cấp các nghi lễ thứ cung cấp sự ủng hộ về chính trị và tư tưởng quan trọng cho những người nắm quyền cai trị và giới quý tộc khác.

Kofukuji là cơ sở lâu đời nhất trong số 4 cơ sở tôn giáo chủ yếu. Được thành lập vào thế kỉ 7, ngôi chùa đã được di chuyển cùng với triều đình tới Nara vào thế kỉ 8. Todaiji được dựng vào những năm đầu của thế kỉ 8 và cũng nhanh chóng được chuyển về Nara.Ở bên trong Nara, hai ngôi chùa đã xây dựng tổ hợp nổi trội của mình đối với phía đông kinh thành. Về mặt lý thuyết, Kofukuji sinh ra từ sự pha trộn Hinayamna-mahayana của phái Hosso và Todaiji sinh ra từ phái Kegon. Kofukuji đóng vai trò như là ngôi chùa dòng họ đối với dòng họ Fujiwara và Todaiji đóng vai trò như là ngôi chùa hoàng gia. Hai ngôi chùa đã kiểm soát đất đai chiếm hữu lớn và duy trì một số lượng nhân sự khổng lồ. Do quyền lực và vị trí của chúng đối với Kiyomori, quân đội của Taira đã tấn công và đốt cháy cả hai vào năm 1180.

Cách Nara 30 dặm về phía nam là ngọn núi Koya. Ở đó, sau khi trở về từ Trung Quốc năm 816, nhà sư huyền thoại Kukai (Sau khi chết thường được gọi là Kobo Daishi) đã lập ra một tự viện và quần thể chùa. Nhà sư Kukai-một nhà thư pháp, kiến trúc sư, họa sĩ, nhà điêu khắc tài năng đã xây dựng trên đỉnh Koya trung tâm dành do phái Mahayana Shingon “bí truyền”. Cho tới ngày nay quần thể này bao gồm trên 110 tòa nhà và có một số lượng lớn các nhà sư.

Nhằm làm suy yếu quyền lực quý tộc đang trỗi dậy, chính quyền hoàng gia đã chuyển kinh đô từ Nara tới Kyoto mới được thành lập vào cuối thế kỉ 8. Kyoto nằm cách 20 dặm ở phía bắc của Nara và dòng họ hoàng gia đã định cư ở phần trung tâm phía bắc trong thành phố. Tuy nhiên mỉa mai thay, Kyoto nằm trong thung lũng và án ngữ ngay tầm nhìn của kinh đô về phía bắc và phía đông là đỉnh Hiei.

Trên đỉnh Hiei vào năm 788 nhà sư Saicho đã xây dựng ngôi chùa Enryaku-ji và tổ hợp tự viện. Là một đối thủ đương thời của Kukai, Saicho cũng trở về từ Trung Quốc với học thuyết nằm trong truyền thống “bí truyền”. Trong chùa Enrayku-ji ông đã xây dựng trung tậm của phái Tendai.

Do vị trí của mình, người của Enryaku-ji có thể dễ dàng đe dọa triều đình. Không phải chỉ là do nó có tổ chức phức tạp và số lượng nhà sư đông đảo mà vị trí chiến lược của nó cũng làm tăng khả năng đe dọa triều đình. Một khi triều đình từ chối các yếu cầu của Hiei, những người của Hiei có thể sẵn sàng đột nhập thành phố. Rất nhiều các cận thần dấn sâu vào tôn giáo và khi các nhà sư (miễn cưỡng tấn công quân đội của giới elite ở Kyoto) tới họ lại đe dọa phân chia phần thưởng cũng như sự trừng phạt bởi các vị thần ác độc. Tất nhiên với sự hành quân của hàng trăm người đàn ông giận dữ và ngang ngược tiến vào thành phố từ trên núi các cận thần có thể sẽ được tha thứ nếu họ cũng nuôi dưỡng những mối quan tâm trần thế.

II. Các ngôi chùa và sự chiếm hữu đất đai

A. Cấu trúc tổ chức

1. Đất đai

Thế kỉ  7, 8 chính phủ Nhật không là gì khác ngoài tham vọng. Nó có thể đã kiểm soát nhưng chỉ là một mảnh nhỏ của quốc gia nhưng dưới ảnh hưởng mê hoặc của triều Đường ở Trung Quốc nó đã xóa sạch sở hữu tư nhân về ruộng đất. Từ đó trở về sau, nhà nước sở hữu tất cả đất đai và  phân phối chúng cho người dân. Đổi lại dân sẽ canh tác và đóng thuế cho nhà nước.

Không thể  thực thi như khi mới bắt đầu, hệ thống này sụp đổ. Thậm chí ngay khi bắt đầu, luật chỉ áp dụng cho ruộng trồng lúa nước. Rõ ràng là nó không hề khuyến khích bất cứ ai mở rộng diện tích lúa nước. Kết quả là chính phủ nhanh chóng tuyên bố rõ rằng hệ thống không áp dụng đối với đất đai mà những người đầu tư mới mở mang để trồng cấy.

Mặc dù  cấu trúc luật pháp thay đổi thường xuyên ở các thế kỉ tiếp theo, nó đã dẫn tới sự phát triển đều đặn của đất đai miễn thuế (được biết đến như là shoen). Nói chung cả quý tộc triều đình (đối lập với quý tộc ở các tỉnh) và các ngôi chùa đều không đóng thuế cho chính phủ đối với phần đất của họ. Để tránh phải đóng thuế, các chủ đất phải nộp thuế khác đã phó thác đất của họ cho chùa. Chủ đất sẽ chia sẻ thu hoạch cho chùa và đổi lại chùa cũng chia sẻ với anh ta. Xét ở góc độ địa phương, những người dân trong làng làm việc trên phần đất nhỏ có thể chuyển nhượng được. Và từ đó họ giữ lại phần thu hoạch cho chính họ và trả phần còn lại cho người quan lý đất.

Như một sự lựa chọn, chủ đất tất nhiên có thể phó thác đất của mình cho một quý tộc triều đình. Hiển nhiên, một ngôi chùa sẽ nhận ra rằng thật khó khăn khi phải cạnh tranh với dòng họ Fujiwara hay hoàng gia sau đó. Nhưng cho dù chống lại họ, các ngồi chùa chủ yếu có hai thuận lợi tiềm tàng. Thứ nhất, các ngôi chùa có trong tay một số lượng lớn nhân sự. Nó không chỉ có trong tay một số lượng lớn các nhà sư và các thành viên tôn giáo khác mà nó còn thuê mướn hàng trăm những người đàn ông khác ở các vị trí hầu hạ hay quản lý. Thứ hai, chúng kiểm soát một loạt các ngôi chùa chi nhánh. Thông qua các chi nhánh này, chúng nắm quyền lực ở những nơi xa xôi nơi không một dòng họ quý tộc Kyoto nào có thể với tới.

Giống như các lãnh địa khốn khổ ở Anh thời trung đại, các quyền đối với các trang viên Nhật Bản (được biết đến như là shiki) về cơ bản là các hợp đồng. Và như vậy chúng có rất nhiều kích cỡ và rất phong phú-một thực tế làm cho bài diễn văn này trở thành một thử nghiệm mạo hiểm. Chúng rất phong phú và mặc dù chúng thường có liên quan đến các cánh đồng lúa, chúng cũng có thể được quan tâm như là nơi sản xuất ra lụa và muối.

2. Sự chấp thuận của chùa

Trên thực tế, sự chấp thuận của chùa  có liên quan tới một sự trao đổi: chủ đất đồng ý trả cho ngôi chùa một loại phí và chùa trao cho chủ đất cơ hội được miễn thuế của mình. Nhưng lợi thế đối với chủ đất mở rộng xa hơn tới bản thân thuế. Ở nơi chính phủ đánh thuế bằng sắc lệnh, chùa có thể chỉ trả bằng mức giá thị trường. Trong bất cứ năm nào có được, nhiều chủ đất đã tìm kiếm các ngôi chùa để phó thác đất đai của mình và nhiều ngôi chùa đã cạnh tranh để giành lấy sự phó thác. Nếu như chùa đó đánh mức phí cao hơn đối thủ thì chủ đất sẽ đem đất đai của mình đến nơi khác.

Sự cạnh tranh rất khắc nghiệt-đôi khi trở thành sự tủi nhục của chùa. Ví dụ như vào năm 1145, một chủ đất ở quận Uchi phó thác một cách đồng vào chùa Kofuku-ji. Ông ta nhanh chóng nhận ra rằng chùa Kofuku-ji đánh phí quá đắt và quyết định phó thác nó cho chùa khác. Kofuku-ji không hề hài lòng. Khi tăng lữ của chùa cố gắng bắt giữ người phó thác, ông ta đã chạy sang ngôi chùa vốn là địch thủ của Kofuku-ji. Kofuku-ji bao vây ngôi chùa này nhưng ông ta đã trốn thoát. Ngôi chùa địch thủ đó đó săn đuổi ông ta với trên 500 võ sĩ nhưng đã vấp phải các võ sĩ của chính quyền quận (bản thân ông ta thuộc dòng họ Fujiwara- và nên nhớ rằng Kofukuji là chùa của dòng họ Fujiwara). Một tư liệu chép rằng “có quá nhiều nạn nhân khiến không thể đếm” (Adolphoson, 2007b: 62).

Thứ hai, một ngôi chùa có thể đáng tin cậy trong thực thi chính sách thu phí phi cướp bóc hơn là các nhà đương cục của chính phủ ở địa phương. Các thống đốc thường cố gắng tăng số thuế họ thu. Có lẽ họ coi bản thân họ (một cách sai lầm) là những kẻ độc quyền. Thông thường họ giữ nhiệm kỳ 6 năm và cố gắng gia tăng số thuế thu được ở mức mà họ có thể trong thời gian họ nắm quyền. Họ đã chơi thứ chiến thuật chiếu tướng liên tục và có chủ ý[3].

Trái lại, các ngôi chùa cạnh tranh giành sự phó thác bằng cuộc chơi hiệu quả lặp đi lặp lại. Bởi vì các nhà đầu tư tiếp tục (đặc biệt là từ sau thế kỉ 13) phát triển các vùng đất mới và các nhà sản xuất, thương nhân tiếp tục buôn bán, các chùa đã đối mặt với yêu cầu đều đặn về miễn thuế. Trên thực tế, điều này đã làm chọ họ trở thành người chơi lặp đi lặp lại và địa vị của họ làm giảm động cơ tăng phí đối với đất đai mà họ đã nắm. Nói một cách khác họ hy vọng giành được sự phó thác trong tương lai và do vậy họ cần danh tiếng cho tiếng nói của họ.

Thứ ba, các ngôi chùa và các tự viện cung cấp một vài sự bảo vệ vũ trang chống lại các nhà quyền quý đối địch. Khái quát hơn, các ngôi chùa và tự viện cung cấp “sự an tâm” trước những mối đe dọa và sự xâm phạm từ bên ngoài. Ví dụ như trong thế kỉ 13, những người nông dân từ trang viên Tamataki đã thỉnh cầu Todaiji để tránh khỏi sự sự xâm nhập của trang viên Shigaraki gần cạnh.[4] Mặc dù người của chùa và các tự viện thiếu sự huấn luyện và trang bị của võ sĩ chuyên nghiệp, các trung tâm tôn giáo đã thuê mướn một số lượng lớn những người đàn ông trung thành và khỏe mạnh. Một số là nhà sư, số còn lại là những người làm công việc phục vụ. Họ có thể đã không vào chùa để làm công việc của võ sĩ nhưng sự hiện diện của họ đôi khi đã đem lại cho các trung tâm sức mạnh để bảo vệ thị trường. Các tư liệu thế kỉ 13 ghi lại rằng các nhà sư của Todaiji  đã vượt trội trong cuộc thi cưỡi ngựa bắn cung (Adolphson, 2007b:110). Vào thế kỉ 16, Kofuku-ji đã tự xây dựng mình thành một trung tâm huấn luyện sử dụng giáo (Id.: 178).

Khi cần thiết, các ngôi chùa cũng thuê các võ sĩ chuyên nghiệp. Một tư liệu năm 1151 từ một ngôi chùa đã yêu cầu trang viên của mình cung cấp thường xuyên 5 võ sĩ để phục vụ như là vệ sĩ.[5] Một tư liệu viết tay khác thế kỉ 12 phàn nàn về các ngôi chùa “tập hợp và thuê mướn các võ sĩ từ các tỉnh và quận lân cận” để làm “những việc ma quỷ”[6].

Và sự thật là  bản thân các nhà lãnh đạo các ngôi chùa cổ cũng là võ sĩ chuyên nghiệp. Không gì làm ví dụ minh họa tốt hơn Moriyoshi-nhà sư thế kỉ 14. Là con trai của thiên hoàng Go-daigo, Moriyoshi đã phục vụ  hai giai đoạn ngắn như là trụ trì của Enryakuji trước khi từ nhiệm vào năm 1330. Ông đã tham gia chiến dịch quân sự của cha mình nhằm lật đổ Hojo và thăng tiến tới mức trở thành người chỉ huy chủ chốt và cùng với Ashikaga Takauji lật đổ chính quyền Kamakura thành công. Thật không may, cha ông ta sau đó đã chỉ định ông ta làm tướng quân-nói không may bởi vì Takauji muốn vị trí đó và đã coi ông ta là địch thủ và ám sát ông ta một thời gian ngắn sau đó (Adolphson, 2007b:ch.4).

(còn tiếp)


[1] ở đây và trong suốt bài báo này, chúng tôi sử dụng cụm từ “địa chủ” (landholder) để chỉ người quyền quý ở địa phương có quyền sở hữu đối với đất đai. Một vài trong số những người này thực sự “nắm”đất đai với nghĩa thông tục; những người khác là những người phụ nữ và đàn ông mong muốn được sở hữu đất đai.

[2] Một hiện tượng tương tự cũng xảy ra ở châu Âu trung đại, với việc nhà thờ tuyên bố độc lập với chính quyền địa phương và đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của quyền sở hữu  đất đai có tính hệ thống. Xem Berman (1983)

Những giai thoại đưa ra trong bài báo này là được lấy từ Adolphson (2000, 2007b). Những độc giả quan tâm tới chi tiết của những sự kiện được miêu tả hoặc muốn tiếp cận các tư liệu phong phú hơn về vai trò của các ngôi chùa, tự viện, các nhà sư trong Nhật Bản trung đại nên tham khảo hai tập nói trên.

[3] Ví dụ như vào năm 1158 các quan chức địa phương dưới quyền thống đốc đã ấn định một mức thuế bất thường đối với một ngôi làng để chi trả cho các tiện nghi của cung điện hoàng gia bị phá hủy vào năm 1156. Ngôi làng là một phần của đất chùa và ngôi chùa đã có được sự miễn thuế đối với ngôi làng một cách thành công. Xem Adolphson (2007a: 166-68).

[4]  Xem chú thích trong nguyên tác.

[5] Xem nguyên tác.

[6] Xem nguyên tác.

Xã hội địa phương và mối quan hệ Danka trong cấu trúc cai trị của Mạc Phủ (4)

July 6, 2013 Leave a comment

Tạp chí nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản số 28 tháng 3,4 năm 2001

Xã hội địa phương và mối quan hệ  Danka trong cấu trúc cai trị của Mạc Phủ

Tác giả: TAMAMURO Fumio

Bài báo này ban đầu được công bố trong TAMAMURO 1999, trang 178-223. Đây là bản dịch tiếng Anh cho JJRS thực hiện bởi Holly Sanders và được biên tập lại bởi tác giả.

Nguyễn Quốc Vương dịch sang tiếng Việt.

Các bậc tu hành và tình nhân của họ: trường hợp Towa

 

Một điều khoản của bộ luật chùa được ban hành vào tháng 7 năm 1665, miêu tả một bộ luật liên quan đến các tình nhân bí mật của các bậc tu hành (nyobon-nữ phạm): “những người bà con là phụ nữ và tất nhiên là những người phụ nữ không phải là họ hàng không được phép ở trong khu cư trú của chùa”. Ngoại trừ phái Ikko, phái cho phép hôn nhân, các mối quan hệ với phụ nữ của các bậc tu hành bị cấm. Ở đây tôi sẽ quan tâm tới các  vụ thông dâm liên quan đến các nhà sư của các ngôi chùa phái Soto.

Vào ngày 7 tháng 8 năm 1786, Towa, vợ của nông dân Matabei ở làng Hayakawa (tỉnh Sagami), thông dâm với Tetsumei, trụ trì của ngôi chùa gia đình bà ta-chùa Chosen-ji. Lời phàn nàn được trình lên chùa đứng đầu là Seigen-in, một ngôi chùa phái Soto nằm ở làng Sanda cùng huyện. Những gì tiếp theo được viết cô đọng trong lời phàn nàn của cô ta (tất các các tư liệu được đề cập dưới đây có liên quan đến Chosen-ji là lấy từ Chosenji Monjo lưu giữ tại Seigan-in):

13 năm trước tôi (Towa) từ làng Onba (huyện Koza, tỉnh Sagami) đến làng Hayakawa để kết hôn với Matabei. Tuy nhiên, 7 năm sau, Matabei mất việc và kể từ đó anh  ấy làm việc ở làng bên cạnh. Gần đây, mẹ Matabei cũng đi làm ở làng bên cạnh. Do đó tôi đã sống cùng với con trai, người giúp đỡ tôi làm công việc may vá. Tetsumei, trụ trì của ngôi chùa gia đình tôi-chùa Chosen-ji đã thi thoảng tới để nhờ tôi sửa chiếc áo choàng của ông ấy. Chính vào những dịp như thế ông ta đã tán tỉnh tôi nhưng tôi đã từ chối vì ông ta  là một nhà sư.

Towa miêu tả Testumei đã trở nên thân thiện với Towa trong quá trình thăm nhà cô nhiều lần. Bước ngoặt trong mối quan hệ giữa họ đến vào thời điểm khi ngôi chùa đang sản xuất các đăng ký gia nhập tôn giáo:

Thời gian trôi đi, ngôi chùa phải làm các đăng ký gia nhập tôn giáo. Tetsumei thăm nhà tôi và nói với tôi rằng nếu như tôi không quan hệ tình dục với ông ta, ông ta sẽ không ghi tên gia đình tôi vào đăng ký gia nhập tôn giáo(điều tương đương với việc quy cho gia đình tôi là tín đồ Cơ đốc giáo). Ông ta chỉ ra rằng điều này sẽ gây ra rất nhiều rắc rối cho Matabei và ông ta đưa ra rất nhiều lời đe dọa khác, ông ta đã ép tôi phải quan hệ. Không có lựa chọn nào khác, như là một người đàn bà thiếu suy nghĩ, tôi đã có quan hệ với ông ta rất nhiều lần trong suốt 3 năm trước.

Sử dụng Shuhanken như là một vũ khí, trụ trì của ngôi chùa gia đình đã ép buộc Towa thông dâm. Trong một ngôi làng nhỏ mối quan hệ của họ nhanh chóng bị phát giác. Mặc dù chồng cô ta và mẹ chồng làm việc bên ngoài làng, cô ta lo sợ một lúc nào đó họ sẽ biết chuyện. Cô ta nói với Tetsumei rằng cô ta muốn kết thúc mọi chuyện nhưng

Do Tsumei hứa với tôi rằng nếu những người làng biết chuyện, ông ta sẽ  đưa tôi làm tình nhân hay trốn thoát khỏi ngôi làng với tôi và mối quan hệ này tiếp tục.

Tuy nhiên, một ngày nọ Matabei nghe được câu chuyện:

Bởi vì Matabei làm việc trong ngôi làng ở bên cạnh tôi thường lo ngại những người lạ đến vào ban đêm. Tuy nhiên một buổi tối khi Tetsumei và tôi đang bí mật quan hệ, cả hai chúng tôi đang say sưa nên không nhận ra ai đó đang ho ở cửa trước. Thật choáng váng, chính là Matabei. Tôi chào chồng tôi như thể không có chuyện gì xảy ra và tiễn Tetsumei đi.

 

Matabei người bắt quả tang Towa  đã nói với cô ta:

Chứng kiến chuyện giữa tôi và Tetsumei, Matabei tuyên bố rằng anh ta muốn nhìn thấy cả hai chúng tôi bị trừng phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, bởi vì Tetsumei là người đứng đầu ngôi chùa gia đình chúng tôi, Matabei quyết định không trình báo nhà sư vì điều đó không chỉ bị cộng đồng coi khinh mà còn xúc phạm tổ tiên của chúng tôi. Thay vào đó, Matabei tát tôi và thét lên: “Tôi sẽ li dị cô”. Một vài người nghe thấy tiếng động và đi vào nhà làm Matabei trấn tĩnh lại. Về sau vào tối đó, anh trở lại nơi làm việc.

Matabei đã có tư thế rất mạnh mẽ đối với sự ngoại tình của vợ và rõ ràng là tức giận cô ta. Tuy nhiên, anh ta tránh việc bày tỏ sự giận dữ với Tetsumei, quan tâm tới thể diện và thực tế rằng bia mộ của tổ tiên đặt tại chùa của Tetsumei. Tuy nhiên anh ta không thể trấn tĩnh Towa và buổi tối tiếp theo cô ta đã chạy tới Chosen-ji.

Một lần khi đêm buông xuống, tôi đi tới ngôi chùa và im lặng lẻn vào phòng ngủ của Tetsumei để bàn bạc tình hình. Tôi yêu cầu ông ta chia tay lần nữa nhưng Tetsumei trả lời rằng mặc dù Matabei phát hiện ra câu chuyện và thậm chí nếu câu chuyện loang ra ngoài, ông ta vẫn tiếp tục yêu tôi. Tetsumei sau đó đã hứa với tôi rằng sẽ cùng nhau mãi mãi cho dù chúng tôi có phải cùng nhau tự vẫn. Và thế là chuyện tiếp tục. Tuy nhiên một buổi tối khi Tetsumei ở nhà tôi, chồng tôi Matabei đã bắt được chúng tôi lần nữa. Khi nhận ra bị phát hiện, ông ta bỏ chạy khỏi ngôi nhà.

Matabei một lần nữa xác nhận chuyện ngoại tình của vợ và lập tức bắt đầu quá trình ly hôn.

Không thể bỏ qua sự việc lần này, Matabei đi tới chùa và nói với Tetsumei về ý định ly dị tôi. Anh ta sau đó đi tới nhóm 5 nhà chịu trách nhiệm với nhau trong làng (goningumi) và trao cho họ tờ giấy ly hôn. Nhưng việc li hôn dựa vào lý lẽ không chung thủy nên bà mối từ chối chấp nhận tờ giấy ly hôn cho tới khi sự việc được thẩm tra.

Towa bí mật đi tới chùa Chosen-ji gặp Tetsumei để kiểm tra cảm xúc của ông ta. Tuy nhiên Tetsumei đã thay lòng đổi dạ. Nhiếc móc Matabei, Tetsumei hoàn toàn không quan tâm đến lời hứa  mà ông ta đã đưa ra với Towa, rằng thậm chí nếu có phải tự vẫn cùng nhau, họ cũng sẽ sống với nhau. Towa đã miêu tả ý nghĩ của mình ở thời điểm đó:

Giờ đây mục đích thực sự của Tetsumei đã rõ, tôi không thể tin được những gì đang xảy ra và trở về nhà. Mặc dù tôi là đàn bà, tôi bắt đầu nghĩ về những lựa chọn nằm ở phía trước. Bị chồng từ bỏ (mặc dù người làm mối vẫn chưa chấp nhận tờ giấy ly hôn) và cũng không thể trở về nhà cha mẹ, chỉ có một lựa chọn duy nhất mà tôi có thể thấy là bằng cách thực hiện lời hứa của Tetsmei đối với tôi là cả hai cùng tự vẫn. Vào ngày 3 tháng 8, tôi lấy một con dao từ nhà mình và hướng về ngôi nhà viên chức của làng để thông báo những gì tôi định làm trước khi hướng về chùa Chosen-ji. Tôi đe dọa Tetsumei và nhắc ông ta về lời hứa, và gí sát lưỡi dao vào ông ta. Vào đúng lúc đó, hai người làng – Katsuemon và Yosuke-vây quanh tôi và nói với tôi rằng họ sẽ thuật lại cảm xúc của tôi tới Tetsumei vì vậy tôi đưa dao cho họ và trở về nhà. Sau đó họ liên lạc với tôi và cho biết rằng yêu cầu của tôi không được tôn trọng.

 

Sau đó Towa giận dữ  chạy tới chùa Chosenji lần nữa nhưng Tetsumei đã dời đi. Dưới đây là một phiên bản cô đọng của lá thư:

Tetsumei đã đi tới Edo để thảo đơn kiện lại. Mặc dù tôi đã mất ông ta, nghĩ lại 3 năm ông ta đã bên tôi, tôi không thể tin được vị đắng ông ta đưa đơn kiện. Trong sự thất vọng tột cùng, nghĩ tới không chỉ bản thân tôi mà còn là chỗ đứng của chồng, tôi nghĩ tới việc tự vẫn bằng cách chết trôi. Tuy nhiên, người làm mối Shichiroemon xuất hiện và nói với tôi viết lá thư này cho ngài, trụ trì chùa Seigen-in… Tôi đã có chữ ký và con dấu của ông ta cùng với chữ ký và con dấu của tôi ở cuối lá thư này. Xin làm ơn thẩm vấn Tetsumei và từ đó tìm ra sự thật, tôi  sẽ vô cùng biết ơn nếu ngài lấy lại danh dự cho tôi.

 

Ban đầu trong thời Edo thông dâm là một tội ác đáng tử hình. Nhưng ở đây tất cả thứ chúng ta có là những lời của Towa, một sự thừa nhận về câu chuyện của Tetsumei cũng sẽ là cần thiết. Gạt qua vấn đề tội ác sang một bên, tôi muốn sử dụng đơn kiện của Towa ở đây để minh họa một vài khía cạnh phức tạp của hệ thống danka.

Vấn đề thứ nhất là  việc trụ trì của chùa gia đình sử dụng Shuhanken để ép Towa thông dâm với ông ta và rằng  cô ta đã đồng ý làm theo. Chính vào các loại dịp này, sự tự do của các nhà sư xác định sử dụng shuhanken, thẩm quyền dóng dấu vào chứng chỉ của chùa. Thêm nữa điều quan trọng cần lưu ý rằng Towa đã phải suy nghĩ đến không những bản thân mình mà còn lo ngại cả chồng là Matabei cũng bị ảnh hưởng.

Thái độ của người chồng đối với ngôi chùa gia đình đã chỉ ra một vấn đề khác nữa. Matabei tránh đối đầu với trụ trì bởi vì anh ta không thể hành động bằng cách thể hiện sự bất kính đối với Phật của tổ tiên mình. Các nhân tố như các dịch vụ mà ngôi chùa gia đình làm cho làng, đặc biệt là các lễ kỉ niệm tổ tiên có thể đã làm suy giảm quyết tâm truy nã trụ trì. Ví dụ như nếu đây là trường hợp thông dâm giữa hai người làng với nhau, người chồng sẽ đối đầu với người đàn ông.

Tuy nhiên nguyên đơn Towa không phải là một nạn nhân vô tội. Bản thân việc thông dâm liên tục trong 3 năm đã là vấn đề. Có khả năng tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề sớm hơn;  sự đồng lõa của cô ta không thể được giải thích đơn giản với lời biện minh rằng cô ta là “một người đàn bà thiếu suy nghĩ”. Dù thế nào, đáp lại đơn kiện mà Towa và người mai mối Yamamoto Senji gửi tới Seigen-in, Tetsumei đã đệ trình tài liệu dưới đây tới các viên chức của Seigen-in.

  Matabei thuộc trang viên của ngôi chùa nhỏ của chúng tôi, đất phong của Matsudaira Sondayu, đã  tuyên bố rằng vợ anh ta và tôi đã hành xử đồi bại. Tôi không hề nhớ bất cứ thứ gì (về những gì bị buộc tội). Không thể tránh được do yêu cầu bất hợp lý này, tôi đã gửi một đơn kiện tới văn phòng của trang viên và để cho chắc tôi cũng gửi tới các ngài. Tháng 8 năm Tenmei thứ 6 (1786).

Mặc dù ngày của tài liệu không rõ, nhưng Tetsumei có lẽ đã gửi nó ngay sau khi Towa đệ trình đơn kiện của mình. Ở đây, Tetsumei trình với Seigen-in rằng ông ta đã không thông dâm và rằng ông ta đã đưa đơn kiện tới văn phòng của Matsudaira Sondayu để lấy lại sự trong sạch của mình. Sau đó, quan sát những diễn biến này, 14 ngôi chùa liên quan của Chosen-ji đã gửi ý kiến bằng văn bản dưới đây tới Seigen-in.

Hiện thời nhà sư cao tuổi Tetsumei của Chosen-ji đã được lệnh dời đi nơi khác; liệu ông ta sẽ phải chịu hình phạt nào nữa không? Những ngôi chùa nhỏ bé chúng tôi nghĩ rằng ông ta thật đáng thương xót. Chúng tôi đề nghị các ông hãy nhân từ bảo vệ vị trí của ông ta khỏi sự xâm hại nào khác nữa và bãi bỏ vụ kiện này. Đồng thời chúng tôi, các ngôi chùa lân cận, các ngôi chùa trong nhóm, anh em hữu ái nehan, các ngôi chùa cùng trong hệ thống chi nhánh và các ngôi chùa liên minh thân thiết khiêm nhường đề nghị điều đó với các ông.

14 ngôi chùa đã đệ trình đơn thỉnh cầu quan tâm tới  bạn đồng nghiệp Tetsumei. Hơn nữa, theo một tư liệu ghi “tháng chín” cùng năm, nhà sư đã nghỉ hưu của Chosen-ji và hai chùa giám sát của 14 ngôi chùa đã gửi tới Seigen-in nôi dung sau:

Gửi các viên chức của Seigen-in

Quan tâm tới lá thư gần đây được gửi tới bởi Yamamoto Senji và một người phụ nữ có tên  Towa ở làng Hayakawa về nhà sư già Tetsumei của Chosen-ji ở cùng làng, chúng tôi nghĩ rằng nhà sư nhún nhường kia quá đáng thương; vì thế chúng tôi sẽ rất biết ơn nếu các ngài yêu cầu các ngôi chùa liên minh giải quyết vấn đề bằng việc hòa giải và bãi bỏ việc điều tra cả hai phía. Tháng 9, năm Tenmei thứ 6 (1786).

Kongo-ji, làng Iiyama

Skei-ji, làng Kawaraguchi

Chosen-ji, Daju (trụ trì đã nghỉ hưu)

Nhiều hơn sự yêu cầu một cuộc điều tra tiến hành bởi ngôi chùa đứng đầu, các ngôi chùa đề nghị các ngôi chùa liên minh gần gũi tiến hành hòa giải giữa các bên có liên quan. Như trong tư liệu trước đó, Tetsumei được miêu tả như là “đáng thương xót”. Chúng ta có thể suy ra rằng các ngôi chùa có âm mưu tìm kiếm sự hòa giải thông cảm với Tetsumei. Nói cách khác, ba nhà sư những người ký vào lá thư là trung tâm của những nỗ lực nhằm có được sự hòa giải. Điều gì sẽ xảy ra với sự hòa giải? Chúng tôi không rõ chi tiết nhưng khoảng hai tháng sau vào ngày 13 tháng 10 (tháng nhuận), các tài liệu được đệ trình lên Seigen-in có con dấu của nguyên đơn Towa, người bảo lãnh Yamamoto Senji và nhân viên mật vụ Gennosuke từ làng Kokubu và Tsuemon từ làng Kozono, những người làm việc như là mật vụ ở vùng Yamamoto Senji. Kongo-ji, Sokei-ji và Daju, các sư trụ trì đã nghỉ hưu của Chosen-ji, cũng đóng dấu vào văn bản. Tài liệu có nội dung dưới đây:

Kính cẩn thông báo tới các ngươi rằng chúng tôi đã giải quyết vấn đề.

 

Được đệ trình lên trước là lá thư từ người vợ của Matabei trong đó nhà sư già Tetsumei  của làng Hyakawa được nhắc tên như bị đơn, cùng với tái bút của người bảo lãnh của cô ta-Yamamoto Senji. Những ngôi chùa khiêm nhường chúng tôi cùng với cả những người trung gian nhận được nó và đã đóng dấu vào. Tuy nhiên, Towa và Yamamoto Senji đã đồng ý với sự hòa giải mà những người trung gian nghĩ rằng nên làm. Do đó, chúng tôi đề nghị rút lá đơn của Towa. Nếu rút, không chỉ người gửi và người bảo lãnh của cô ta mà rất nhiều nhân viên mật vụ cũng sẽ vô cùng biết ơn và hơn nữa, những ngôi chùa khiêm nhường chúng tôi  sẽ không có đòi hỏi gì hơn từ nhà sư già Tetsumei liên quan đến sự kiện này. Chúng tôi cùng ký vào để công nhận điều trên.

 

Trước hết, tài liệu này nói rằng 5 trong số tất cả-3 chùa và 2 người trung gian- đã nhận được thẩm quyền giải quyết hòa giải và rằng kết quả là sự hòa giải đã đạt được sự thỏa thuận. Trong tài liệu này họ tuyên bố rằng họ muốn rút tài liệu mà Towa đệ trình lên Seigen-in trong quá khứ. Họ cũng phát biểu rằng họ sẽ không truy cứu gì về sự kiện này. Thật không may, những tài liệu chứa đựng các chi tiết cụ thể của việc giải quyết không còn tồn tại. Chúng ta không biết liệu nội dung của các tài liệu này có lợi hay bất lợi cho Towa. Tuy nhiên chúng tôi có một tài liệu khác chứa đựng thông tin tương tự và được cho là cũng được tạo ra vào cùng thời gian. Tài liệu này có chữ kí và con dấu của bốn chùa và 20 viên chức của làng và danka. Từ tài liệu này chúng tôi biết rằng sự việc đã không nguôi đi. Tại một buổi họp Tetsumei đã  mặc cả rằng nếu ông ta trả tiền cho các viên chức của ngôi chùa đứng đầu, ông ta có thể đi với tội danh đơn giản là “sơ ý” (có lẽ có nghĩa rằng sự bê tha không phạm tội). Đáp lại Seigen-in khiển trách Tetsumei và ông ta đã viết lời xin lỗi. Do đó có danka người đã không chấp thuận việc Tetsumei hành xử như thế nào trong quá trình hòa giải và thậm chí không bằng lòng với việc đó đến độ danka này muốn phá vỡ mối liên hệ với Chosen-ji bởi “vụ Towa”.

Vào ngày 17 tháng 11 năm 1786, trưởng làng Hayakwa gọi danka của Chosenji tới nhà để đề xuất rằng họ trở lại Chosen-ji nhưng do danka đã cùng nhau quyết định rằng sẽ “không quay lại” (ridan), cuộc gặp không đi đến đâu. Người trưởng làng đã đưa ra vài lý do trở lại ngôi chùa với tư cách danka: ngôi làng bần cùng không thể đảm đương việc kiện cáo hơn nữa; thẩm quyền đã thuộc về Seigen-in trong việc đưa ra hòa giải cuối cùng; ngôi làng sẽ xuất hiện một cách không xứng đáng trong mắt các ngôi làng lân cận; ép vấn đề đi xa hơn sẽ làm liên lụy đến các vấn đề về địa vị của các bậc tu hành; và các yêu cầu của họ đối với đức phật của tổ tiên họ sẽ trở nên không chắc chắn. Thêm nữa, người trưởng làng gọi ý rằng danka yêu cầu Tetsumei phải đi để đổi lại việc họ trở lại. Như kết quả của ngày 17 tháng 11, 63 danka quyết định trở lại. Điều này theo sau bằng việc trở lại của 3 danka vào ngày 18 và 8 danka trở lại vào ngày 20. tính tổng, 74 danka đã trở lại Chosenji nhưng 4 danka quyết định không trở lại là Denbei, Tazaemon, Shinzo và Kukunai. Tên của Matabei không xuất hiện cả trong chứng chỉ “trở lại” và “không trở lại”. Lý do mà Shinzo không trở lại như sau:

Tính cách của Tetsumei là giống như nó được miêu tả trong lá thư của Towa gửi lên chùa đứng đầu”. Ngôi chùa đứng đầu đã nhân hậu cho phép hòa giải. Mặc dù tôi không biết liệu nó có đúng không, mọi người đã nghe rằng (nhà sư đã cố gắng giải quyết vấn đề bằng tiền) và với cái loại thái độ đó, thật khó để tôn trọng (Tetsumei) như là một tăng sư người có địa vị khác hẳn những người thế tục và như là một trụ trì của ngôi chùa dòng họ. Chúng tôi  lo ngại  việc yêu cầu ông ta tiến hành  các lễ kỉ niệm cho tổ tiên và cha mẹ chúng tôi. Sẽ là điều bất thường nếu chúng tôi chấp nhận việc ông ta đốt hương và chủ trì các nghi lễ (cho tổ tiên chúng tôi), và bởi vì (toàn bộ sự việc) là vô cùng thảm thương, chúng tôi đã mất thể diện…

Shinzo đã phê phán không úp mở tính cách của trụ trì. Ông ta đề cập đến sự buộc tội được nói tới trong lá thư của Towa, trên thực tế Tetsumei đã đưa tiền cho người mai mối Yamamoto Senji để tiến hành hòa giải, thực tế rằng ông ta không thể nào được tôn trọng như là người đứng đầu một ngôi chùa gia đình, tai tiếng của ông ta và rằng do tai tiếng đó, Shinzo không thể  than khóc với sự tự tin rằng sự thành phật của cha ông ta được đảm bảo.

Vào ngày 24 tháng 11, Tetsumei đệ trình tới Seigen-in một chứng chỉ với com dấu và chữ ký của 4 danka và 3 chùa liên minh gần gũi. Lời xin lỗi này bao gồm lời thú nhận rằng hành động của ông ta ở cương vị trụ trì đã gây ra sự  xúc phạm và rằng ông ta sẽ nghỉ hưu như bị yêu cầu rằng ông ta sẽ không đưa ra bất cứ lời bào chữa nào nữa… Cùng ngày Tetsumei hứa với Seigen-in  sẽ nộp con dấu đỏ chính thức của ngôi chùa cho nhà sư làm nhiệm vụ điều tra, sổ sách ngôi chùa đang giữ, quà tặng đất đai đã được tặng cho ngôi chùa và tiền nhận từ các nhà xác, cánh đồng, đồ đạc của chùa và các thứ khác.

Bằng việc đó, “vụ Towa” chìm xuống. Tội tử hình là hình phạt phổ biến dành cho tội thông dâm nhưng ở đây việc giải quyết đã tiến đến thông qua hòa giải được sắp xếp bởi các ngôi chùa liên minh và người trưởng làng. Nó có vẻ rằng Towa, lúc đầu cương quyết đã chấp thuận hòa giải khi điều kiện hình phạt tử hình được loại bỏ và vụ việc được giải quyết bằng tiền. Tetsumei cũng có khả năng thoát khỏi hình phạt tử hình và mặc dù ông ta bị đuổi khỏi Chosen-ji, ông ta vấn có khả năng bảo tồn được danh tiếng bằng việc nghỉ hưu. Thật may mắn cho cả hai đã thoát khỏi tội chết nhưng chúng ta có thể thấy nhiều vấn đề với hệ thống danka của thời kỳ Edo nổi lên trong vụ việc này. Chúng phải lưu ý rằng thậm chí thông dâm là có thể đối với các nhà sư người đã sử dụng shuhanken như là đòn bẩy. Tuy nhiên, thậm chí trong loại tình huống này, danka đã không được phép phá vỡ sợi dây liên hệ với ngôi chùa gia đình.

Tiếp theo là một sự việc khác ở chùa Chosen-ji liên quan đến danka người đã muốn phá bỏ khỏi chùa. Không phải việc rằng chùa này đặc biệt có một số lượng lớn các nhà sư có tình nhân nhưng tôi chọn chùa này đơn giản bởi vì tài liệu còn lưu lại.

Sự việc  thoát khỏi chùa Chosen-ji

Năm 1819, khoảng 30 năm sau “vụ Towa”, lại có thêm rắc rối tại chùa Chosen-ji với danka người muốn thoát khỏi chùa. Tôi muốn bắt đầu với lý do mà danka đưa ra để mong muốn thoát khỏi chùa:

Kính cẩn trình lên yêu cầu

Nội dung: Chosen-ji, chùa nằm dưới sự kiểm soát của ngài, đã có quyền lực lớn và gây khó khăn cho tất cả các danka của nó. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ không tự vệ và tôn trọng nó bởi vì nó là ngôi chùa gia đình của chúng tôi và nếu cư xử của nó đáng tôn trọng và nếu các viên chức của chùa làm tốt công việc của họ. Tuy nhiên, bởi vì ngôi chùa đã gây cho chúng tôi nhiều khó khăn và do tư cách đạo đức đồi bại của nó, danka chúng tôi cùng nhau thoát khỏi chùa. Không thể tránh được, chúng tôi yêu cầu các ông (Seigen-in) cho phép làm điều này. Nếu các ông nhân từ tiếp nhận đề nghị của chúng tôi tất cả các danka chúng tôi sẽ vô cùng biết ơn. Do các khó khăn gây ra cho các danka và do tư cách đạo đức đồi bại nói trên chúng tôi thông báo rằng chúng tôi thoát khỏi ngôi chùa

(Chosenji Monjo, 1819).

Kanka của Chosen-ji đã đệ trình “Đề nghị thoát khỏi chùa” tới chùa đứng đầu, Seigen-in. Họ đưa ra hai điểm, thái độ của chùa đối với danka và tư cách đạo đức đồi bại của trụ trì. Các lý do cụ thể như sau:

1. Khi ai đó chết và cần đám tang, trụ trì đòi mức phí cắt cổ.

2. Đối với các nghi lễ kỉ niệm tại nhà ai đó, ông ta tới thậm chí một ngôi nhà nghèo với một nhà sư trẻ đi kèm và một người nữa bởi vì ông ta muốn tỏ ra ngông cuồng

3. Trong các nghi lễ kỉ niệm tại chùa, cho dù phần lớn sự sắp đặt được tiến hành bởi những người thân quen, nếu sự cúng tiến thấp ông ta giận giữ và đuổi họ ra ngoài.

4. Khi chúng tôi phải cúng tiến, ông ta khăng khăng số tiền mặt là 200 mon, 2 sho gạo và rau…

5. Trong trường hợp loại bỏ thai, sẩy thai hoặc trẻ chết lúc sinh, ông ta lấy 1 ryo 2 bu-đây là mức quá đắt đối với những hộ nghèo.

6. Trong các nghi lễ kỉ niệm (từ năm thứ nhất tới năm thứ 33), ông ta yêu cầu rằng chúng tôi trả giá mà ông ta viết trên tấm biển treo ở chùa

7. Đối với những đứa trẻ chết trước khi chúng được 9 đêm, chùa tiến hành một đám tang có quy mô lớn và sau đó yêu cầu rằng gia đình phải tiến hành nghi lễ kỉ niệm hàng năm.

8. Danka Hikoemon đã bị đánh tàn tệ đến nỗi xương anh ta và thân mình trải qua những cơn đau đớn vật vã.

9. Ngôi chùa thuê các diễn viên và những người làm trò tiêu khiển và đã luyện tập vở kịch ballad. Trụ trì để cho cổng chùa mở vào ban đêm và đi đến nhà của những người thế tục để giải trí.

10. Trụ trì có một người đàn bà trẻ sống với ông ta và  gọi cô ta là “bà già giặt quần áo”

11. Trụ trì chuyển lậu cá vào các thùng chứa của chùa

12. ông ta dỗ ngọt để lấy sự cúng tặng (vàng và bạc) từ các danka và sau đó dùng chúng cho các gái điếm hạng sang tại Yoi (một nhà chứa ở ga Hiratsuka)

13. Ông ta cho gọi các nhân vật ám muội tới chùa, tụ tập các phụ nữ trẻ lại cùng nhau và tổ chức yến tiệc.

14. Ông ta bị ám ảnh bởi những người phụ nữ trong làng; ông ta không thể nào rời bỏ họ được và sỉ nhục những người đàn ông trẻ.

Tóm lại, sự cư xử của vị trụ trì này đã thể hiện ra ngoài như một câu chuyện kinh khủng. Do đó trong khi trụ trì vắng mặt khỏi ngôi chùa, danka tập hợp ở đó để bàn bạc về việc trục xuất trụ trì và ép ông ta phải từ chức. Giận dữ bởi cuộc gặp mặt này, trụ trì sau đó đã quay ngoắt sang buộc tội danka đã dẫm chân lên bài vị của thiên hoàng và tướng quân và có thái độ hiếu chiến với họ. Tình huống này đã được ghi lại chi tiết.

Trong sự đối đầu tiếp theo, trụ trì Gyokutan tiếp tục phủ nhận mọi thứ vì vậy không có tiến triển nào. Vào ngày 22 tháng 6, danka tạo ra một tài liệu gọi là Karakasarenbanjo, một tài liệu ở đó các chữ ký được ký thành vòng trong để che giấu việc ai là người cầm đầu. Nó được gửi tới Seigen-in. Nguyên nhân chính của của tài liệu là là việc danka muốn phá bỏ mối ràng buộc với chùa Chosen-ji do sự xảo trá của trụ trì Gyokutan nhưng nếu Gyokutan bị thay thế bởi một nhà sư chính trực, danka sẽ trở lại ngôi chùa.

Do đó họ muốn Seigen-in sắp xếp sự chuyển đi Gyokutan. Vào ngày tiếp theo, ngày 26, danka một lần nữa gửi một lá thư liên quan đến hành vi sai trái của Gyokutan:

 Kính cẩn trình lên văn bản yêu cầu

Với tư cách là  đại diện của danka thuộc chùa Chosen-ji, làng Hayaka, tôi tuyên bố rằng trụ trì của chùa trên là đồi bại về đạo đức và không công bằng. Chúng tôi đã liên tục đưa yêu cầu tới ngài liên quan tới trụ trì của chúng tôi. Cùng với các nội dung chúng tôi đã trình lên ngài cho tới nay, có rất nhiều thứ khác chúng tôi đã bỏ sót vì vậy giờ đây do sự ương ngạnh của trụ trì, chúng tôi viết những điều còn sót lại và yêu cầu ngài đọc chúng

Nội dung: : như trước đó đã nói, trụ trì đã có quan hệ bất hợp pháp với con gái của người làng Goroemon. Cô ta mang thai và khoảng ngày 20 tháng trước cô ta đã phá bỏ thai.

Nội dung: Người đã chăm sóc cô con gái là vợ của người làng Bun’emon. Người đàn bà này trước đó đã có quan hệ bất hợp pháp với trụ trì và đã nhiều lần được nhận tiền để bí mật chăm sóc con gái của Goroemon và cung cấp chỗ nghỉ vì thế trụ trì có thể qua đêm nhiều lần. Vào buổi bình mình ông ta sẽ rời đi bằng cửa sau và trở lại chùa bằng đường núi. Do cỏ bị dẫm lên, chúng tôi biết ông ta đã ở đó. Do tình trạng này dần dần những người làng đã gây ra sự phản ứng và người vợ đã bị ly dị. Kết quả là người vợ gần đây đã buộc phải đến Chosenji, nơi như người ta đồn, cô ta đã yêu cầu đi yêu cầu lại để được gặp trụ trì. Cô ta muốn ông ta đưa cô ta vào hoặc cho cô ta tiền hay tiến hành hòa giải vì thế quá khó để trụ trì trở lại ngôi chùa. Do đó, ông ta đã đi tới Ryodo-in. Vào khoảng ngày 20 (tháng 6), người vợ cuối cùng cũng dời Chosen-ji. Hết lo, trụ trì lại trở lại ngôi chùa…

Trong số các cư xử vô đạo đức của trụ trì, một lần nữa người tình bí mật của ông lại được đề cập chi tiết. Trụ trì đã có quan hệ bất hợp pháp với hai người phụ nữ, trong đó một người là  Tomi, con gái của người làng Goroemon có thai và đã phá thai. Một người vợ của một người làng khác, Bun’emon, đã giới thiệu Tomi tới Gyokutan, một công việc đem lại cho người vợ này tiền bạc. Chuyện của Tomi và Gyokutan xảy ra ở nhà Bun’emon. Người đàn khác đã từng có quan hệ với trụ trì chính là vợ Bun’emon; khi sự việc bị vỡ lở Bun’emon ly hôn. chúng ta biết rằng người vợ, tức giận với diễn tiến của sự việc đã ép Gyokutan hoặc là chăm sóc cô ta hoặc là giải quyết vấn đề bằng tiền thông qua hòa giải. Gyokutan dời khỏi Chosen-ji và tị nạn tại một ngôi chùa lân cận do rắc rối này. Ông ta đã giải quyết vấn đề với vợ Bun’emon với giá 3 ryo 3 bu vàng.

Seigen-in, trong quá trình thương thuyết với các danka, đã có thể xác định rằng Gyokutan đã sa ngã vì vậy họ đã đuổi ông ta khỏi Chosenji và bắt ông ta phải nghỉ hưu. Danka bận rộn với công việc đồng áng và không thể tiếp tục quá trình thỉnh nguyện lâu dài. Vào tháng 7 cùng năm, họ trao đổi chứng nhận hòa giải và vụ việc chìm xuống. Một vị trụ trì mới cuối cùng cũng được đưa vào chùa, vì vậy danka đã không thành công trong việc  phá vỡ mối ràng buộc với ngôi chùa cho dù họ đã buộc Gyokutan phải ra đi. Bất chấp việc phơi bày chuyện thông dâm của Gyokutan, danka không thể phá vỡ  nó bằng cớ này.

Hai sự việc tại Chosenji đã minh họa mối quan hệ thăng trầm giữa chùa và các danka của nó, ở đó danka đã dần có tiếng nói trong các công việc của chùa Phật giáo. Tuy nhiên như kết quả của hai sự việc minh chứng, quyền lực của chùa đối với danka về cơ bản được xác nhận bởi mạc phủ. Bất cứ sự thay đổi nào chỉ có thể xảy ra bên trong giới hạn của mối quan hệ quyền lực được xác định bởi mạc phủ và ngôi chùa đứng đầu. Trường hợp Tanaka Sahei đã minh chứng rằng thậm chí các chư hầu ở thứ bậc cao cũng không thể lật đổ thứ bậc. Mặc dù hệ thống danka là một sản phẩm của nỗ lực kiểm soát các tín đồ Cơ đốc giáo nhưng cả Mạc phủ và các chùa Phật giáo nhận ra nó là một phương tiện tiện dụng để giám sát dân chúng và duy trì mối quan hệ ổn định của các chùa.

(Hết)

Xã hội địa phương và mối quan hệ Danka trong cấu trúc cai trị của Mạc Phủ (3)

July 5, 2013 Leave a comment

Tạp chí nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản số 28 tháng 3,4 năm 2001

Xã hội địa phương và mối quan hệ  Danka trong cấu trúc cai trị của Mạc Phủ

Tác giả: TAMAMURO Fumio

Bài báo này ban đầu được công bố trong TAMAMURO 1999, trang 178-223. Đây là bản dịch tiếng Anh cho JJRS thực hiện bởi Holly Sanders và được biên tập lại bởi tác giả.

Nguyễn Quốc Vương dịch sang tiếng Việt.

 

Homyo và Kaimyo.

 

Ở đây tôi sẽ vẽ ra Zenshu ingo dogo kaimyo jiten, thứ chứa thông tin chi tiết về dạng thức ban cho pháp danh  và kaimyo, đặc biệt trong các môn phái Thiền (EGAKU 1989, trang 11-13). Dạng thức dành cho homyo là như dưới đây ( tuổi nằm trong Kazoedoshi hoặc đếm kiểu Nhật)

 

Khi trao tặng một Ingo (Viện hiệu)

XX in (ingo) YY (dogo-đạo hiệu) ZZ (homyo/kaimyo) koji-cư sĩ (daishi đại tỉ)

Khi không trao tặng một Ingo

YY (dogo) ZZ (homyo/kaimyo) koji (daishi)

Ingo (viện hiệu): Một sự kính cẩn được dùng để diễn tả sự kính trọng đối với người có thành tựu thế tục. Những cái tên như ken, an, sha, sai, do, en được coi như ingo. Thứ hạng cao hơn là cái tên inden daikoji (Viện điện đại cư sĩ) nhưng nó được giới hạn chỉ dành cho tướng quân và daimyo trong thời Edo.

Dogo (đạo hiệu): thường sử dụng hai ký tự dưới ingo và trên homyo

Homyo (kaimyo-Pháp danh): có hai ký tự

Igo (vị hiệu) tiếp nhận sự phụ thuộc vào chiều sâu của sự tận tụy và lòng mộ đạo của người chết.

Daizenjomon (Đại thiền định môn)/ Daizenjoni (Đại thiền định ni): được trao cho gia đình người sáng lập và tướng quân (shogun)

Daikoji (Đại cư sĩ)/Shodaishi (Thanh đại tỉ): tương ứng với indengo. Trong vài trường hợp được dùng như ingo.

Koji (cư sĩ)/Daishi (đại tỷ): được trao cho những người đàn ông và phụ nữ  có vị trí xã hội cao và những người dâng nộp các dịch vụ đặc sắc cho môn phái hoặc chùa.

Shinji (tín sĩ)/Shinnyo (tín nữ): được trao cho  những người đàn ông và phụ nữ trên 15 tuổi người đã học tập tôn giáo mà không gia nhập một cách chính thức vào thứ bậc và dành cho những ai có pháp danh khi vẫn còn sống.

Zenjomon (thiền định môn)/Zenjoni (Thiền định ni): Ban đầu được trao cho những người đàn ông và phụ nữ những người chính thức gia nhập trật tự nhưng sau đó được trao cho những ai qua tuổi 30 đặt dưới shinji và shinnyo. Đối với các cá nhân dưới 20 tuổi thì danh hiệu là zenmon và zenni.

Bên cạnh như trên, homyo đặc biệt được dành cho trẻ em tùy thuộc vào tuổi của chúng.

Doji (đồng tử)/Dojo (đồng nữ): được trao cho các bé nam và bé nữ từ 4 đến 14 tuổi.

Gaiji (hài tử/hài nhi)/ Hài nữ: được trao cho các bé nam và bé nữ từ 2 đến 3 tuổi.

Eiji (Anh tử) Eijo (Anh nữ): được trao cho các bé nam và nữ những người đã chết trong năm được sinh ra; các trẻ em dưới một tuổi.

Mizuko (thủy nữ): được trao cho các thai nhi bị sẩy hoặc chết khi sinh

Ở trên là homyo được dùng tới tận ngày nay. Trong khi homyo dành cho trẻ em  là không phân biệt, nhiều loại phân biệt đối xử được tạo ra khi trao homyo cho những người đàn ông và phụ nữ trưởng thành. Trụ trì tiến hành lựa chọn dựa trên nền tảng của các tiêu chuẩn mập mờ như dòng dõi, sự giàu có, vị trí xã hội và sự cúng tặng dành cho chùa hay môn phái. Điều này quả thật là một thủ tục rắc rối.

Tiếp theo, tôi sẽ quan tâm tới tình hình thật sự liên quan đến kaimyo trong thời kỳ Edo. Cùng với sự chuẩn bị cho đăng ký báo tử, thứ hạng của kaimyo cũng thể hiện các khó khăn. Sự tương ứng dưới đây, đối với và  xuất phát từ quan tòa của các ngôi chùa và đền thờ Thần đạo  liên quan đến phái Soto (YOKOZAKI 1938, trang 261).

 

Đáp lại một yêu cầu

Không có tiền lệ chính thức nào dành cho ban tặng danka homyo của bậc koji và daishi trong phái Soto. Thậm chí ở bên trong môn phái, không hề có các nguyên lý tôn giáo dành cho việc phân biệt thứ bậc dựa trên nền tảng của sự quý trọng và sự chế nhạo nhưng danka lớn như daimyo và các lãnh chúa trang viên thường nhận được indenkoji (đàn ông) và iden daishi (phụ nữ). Các nhà bảo trợ sáng lập hay các danka mộ đạo đã có đóng góp đặc biệt nhận được koji và daishi. Những cái tên này không giới hạn đối với những người có địa vị võ sĩ. Đôi khi koji và daishi được tặng cho danka có dòng dõi lâu đời nhưng người ta không thể dễ dàng nhận một trong số này chỉ bằng cách đưa ra yêu cầu. Nếu một danka đệ trình một trong số các lý do trên và đưa ra đề nghị và thực hiện cúng tiến để có được sự giác ngộ đạo Phật thì họ sẽ được ban tên nếu điều đó là không thể tránh. Thậm chí sau đó danh tiếng của dòng dõi danka cũng tăng lên. Sau đó (cái tên mong muốn) có thể được ban tặng. Những ai có địa vị nông dân hay thấp hơn nhận zenjomon và zenjoni; koji và daishi bị cấm nghặt. Bất chấp thứ bậc, tất cả trẻ em được ban hogo (pháp danh) là doji hay dojo.

Tháng 2 năm Horei thứ 9, năm Thỏ (1759).

 

Tư liệu này, thứ là một phần của Jisha saikyo mondo nói lên bản chất rằng không có mệnh lệnh của mạc phủ đối với kaimyo và rằng luật tăng lữ chắc chắn đã không tạo ra sự khác biệt nào dựa trên thứ bậc đối với phái Soto. Tuy nhiên, thông thường thì daimyo mà các nhà bảo trợ được tặng các tên như inden koji và inden daishi. Những nhà bảo trợ lớn (những nhà tài trợ đầy quyền lực) và các tín đồ trung thành không chỉ giới hạn trong tầng lớp võ sĩ nhận các tên như koji và daishi. Thêm nữa, các gia đình có dòng dõi lâu đời đôi khi cũng nhận được các tên này. Rõ ràng là người ta không thể đơn giản đòi hỏi một cái tên và trông đợi yêu cầu này ngay lập tức được chấp nhận nhưng nếu người đó đệ trình lên lý do đối với từng loại được đề cập ở trên và cúng tiến để đảm bảo sự cứu rỗi linh hồn thì yêu cầu sẽ được quan tâm, được đáp ứng thứ mà ngày sinh và chữ không chê vào đâu được. Những ai thuộc về tầng lớp nông dân và thấp hơn được ban tặng các tên như zenjomon và zenjoni; các tên như koji và daishi không được phép. Bất chấp địa vị, trẻ em nhận được các tên như doji và dojo.

Tiếp theo, tôi sẽ quan tâm đến  nội dung của tài liệu này. Trước hết, các tên inden koji và inden daishi có nghĩa được dành cho các nhà bảo trợ đầy quyền lực như daimyo, có thể thấy khi nhìn vào các bia mộ hay các đăng ký báo tử còn lưu lại. Tuy nhiên, những gì tôi muốn đặt vấn đề là sự ban hành quá mức các tên của thứ bậc tiếp theo: koji và daishi. Để nhận được tên thuộc thứ bậc này, đoạn văn đề cập đến 4 điều kiện: 1, người sáng lập gia đình; 2, tín đồ ngay thật ; 3, dòng dõi gia đình lâu đời; 4, cúng tiến tiền để được cứu rỗi linh hồn. Trong số đó, điều kiện thứ 2 và thứ 4 rất khó tìm hiểu. điều kiện thứ hai không xác định những gì bao gồm “sự ngay thật”  hoặc nói một cách khác một “việc làm tốt”. Ví dụ như, nó không nói dứt khoát liệu việc cúng tiến một chiếc chuông, một pho tượng hay đồ thờ cúng hoặc đóng góp để sửa chữa hay xây dựng chùa hay thậm chí cúng tiến đất đai có được tính là một hành động ngay thật hay không. Tương tự như vậy, điều kiện số 4 không xác định số lượng tiền. Người ta có thể cho rằng 2 và 4 quan tâm đến độ lớn của đóng góp đối với ngôi chùa. Hoặc chúng có thể bao gồm sự quan tâm đến dòng dõi của danka. Một vấn đề khác liên quan đến việc quy các tên như zenjomon và zenjoni cho những người thuộc tầng lớp nông dân và những người có địa vị thấp hơn. Từ một góc độ khác, người ta phải hỏi tại sao quan tòa của chùa và đền thờ thần đạo đặt ra yêu cầu  đối với những vấn đề này. Phán đoán từ các bia mộ và đăng ký báo tử thì thấy có một vài những người nông dân-những người nhận được tên thuộc thứ bậc koji và daishi hoặc shinji, shinnyo chứ không phải chỉ có zenjomon và zenjoni. Chúng tôi sẽ không nhìn qua thực tế rằng người ta có thể mua kaimyo của thứ bậc nhất định  phụ thuộc vào việc họ dùng bao nhiêu tiền.

Một lệnh cấm mà mạc phủ ban hành ở mức độ nhỏ sau đó vào năm 1831 quan tâm tới sự ban hành quá mức homyo, ingo và kojigo và dựng một số lượng lớn bia mộ.

 

Gần đây người ta nghe rằng những người nông dân và những người dân thành phố tiến hành những đám tang quy mô lớn không phù hợp với địa vị của họ, rằng họ dựng các bia lớn tại nghĩa địa và rằng họ đã nhận kaimyo thuộc thứ bậc ingo và kojigo. Từ nay về sau, những người nông dân và những người dân thành phố, thậm chí là những người giàu có và đặc biệt cũng sẽ không được làm đám tang tổ chức bởi trên 10 nhà sư. Họ cũng phải cúng tiến tương xứng với quy mô đất đai họ có. Chiều cao và chân đế của bia mộ giới hạn tới 4 shaku và họ không được nhận kaimyo thuộc thứ bậc ingo và kojigo. Các bia mộ hiện có được để nguyên trạng nhưng khi sửa chữa chúng kaimyo như ingo và kojigo phải bị xóa đi. Các bia mộ phải được điều chỉnh bằng cách này.

 

Bảng 1. Homyo (kaimyo) giá cả dành cho phái Ji

Homyo                       Price                               đổi ra koku

Goago                        vàng 7 ryo 2 bu                 4.97

Daiichigo                    vàng 7 ryo 2 bu           4.97

Ingo                           2 bu                          .33

Kakuago                    bạc 3 đồng                   1.42

Kojigo                       bạc 3 đồng                   1.42

Daishigo                   bạc 3 đồng                  1.42

Toichigo                   bạc 2 đồng                   .95

 

Tiếp theo tôi muốn quan tâm tới tình hình thực tế liên quan đến việc định giá kaimyo.

 

 

 

Giá cả của Kaimyo

Có một tài liệu gọi là “Phí dành cho tên của những người thế tục” (zaike no hogo gomen hosharyo) được viết bởi trụ trì Ippo của chùa Shogan-ji thuộc phái Ji (một ngôi chùa thuộc phái Ji chi phái Yugyo ở Kurokoma, tỉnh Kai) năm 1712. Tư liệu này chỉ ra thứ bậc và giá cả đối với các tên Yugyo Shonin ban cho những người thường khi ông làm cuộc hành hương vòng quanh đất nước (xem bảng 1)

Theo bảng này, các tên như Goago (dành cho đàn ông) và Daiichigo (dành cho phụ nữ) là đắt nhất với giá 7 ryo 2 bu hoặc 4 koku, 9 to, 7 sho (745.5kg). Một cách ngẫu nhiên, những cái tên chung đối với tất cả các phái, koji dành cho đàn ông và daishi dành cho phụ nữ giá từ 3 đồng bạc hoặc 1 koku 4 to 2 sho (213 kg). Ingo kaimyo giá 2 bu hoặc .33koku nhưng trên thực tế koji hoặc daishi sẽ được đính kèm vì vậy giá thực tế là 1 koku 7 to 5 sho.

Vào ngày 4 tháng 10 năm 1712, trụ trì chùa Hojozi (làng Miharu, huyện Tamura, tỉnh Fukushima) đi tới Saiko-ji (Nakamura, ngày nay là thành phố Soma) nơi Ippo Shonin đang ở. Ở đó ông đã  ban tặng “koji cho 1 người và daishi cho 2 người với giá 6 ryo 3 bu (TAMAMURO 1977, tập 1). Koji và daishi mỗi thứ giá 2 ryo 2 bu cho mỗi người. Đổi ra giá gạo năm đó, số lượng này đại thể tương đương 1 koku 5 to, đắt hơn một chút so với mức 1 koku 4 to 2 sho được liệt kê trong bảng 1. Thậm chí ở giá đó, các tên rõ ràng có thể bán được.

Thêm nữa, nhìn vào trường hợp của phái Soto ở Kanto, một tư liệu từ 1831 chỉ ra rằng ingo, kengo và ango có giá từ 3 đến 5 ryo (xấp xỉ từ 2 koku 4 to tới 4 koku 4 to); koji và daishi có giá 1 ryo (8 to 8 sho); shinji và shinnyo có giá 2 kanmon (4 to 4 sho); và hai chữ kaimyo được thêm vào zenjomon hay zenjoni có giá 1 kanmon (2 to 2 sho). Không có thứ nào trong đó rẻ. Từ đó chúng ta có thể kết luận rằng chừng nào homyo được quan tâm, những cái tên goago và daiichigo sẽ rẻ hơn trong phái Soto so với trong phái Ji. Tuy nhiên, những kaimyo dành cho phái Ji có thể sánh với các kaimyo được biết đến như indengo trong các phái khác. Nhìn vào ingo kaimyo được ban tặng bởi cả hai phái, với giá 2 koku 4 to tới 4 koku, phái Soto là tương đối đắt khi so với 1 koku 7 to 5 sho trong phái Ji. Koji và daishi thay đổi từ 1 koku 4 to 2 sho tới 1 koku 5 to trong phái Ji so sánh với 8 to 8 sho trong phái Soto; do vậy các thứ bậc này đắt hơn trong phái Ji.

Sự thay đổi theo thời gian trong Kaimyo (Homyo) và sự dao động của giá cả làm cho việc so sánh giá của Kaimyo trở nên khó khăn. Tuy nhiên vấn đề thực sự, nằm ở thực tế rằng thứ bậc của một kaimyo (Homyo) phụ thộc vào mức độ giàu có của người đó. Nói một cách khác, sự đóng góp kinh tế của danka có tương quan với thứ bậc của phật ở thế giới bên kia. Kaimyo đã chỉ cho chúng ta thấy rằng sự phân biệt đối xử tôn giáo dựa trên vị trí xã hội, dòng dõi và thân phận vẫn tiếp tục trong thế giới sau khi chết. Ở bất cứ hạng nào, nếu không có thứ gì khác là chắc chắc, chúng ta có thể chắc rằng bằng việc chỉ định thứ bậc danka, các nhà sư của các chùa chi nhánh đã thực hiện ý đồ của chính họ nhằm vào mục đích kinh tế, thậm chí người đứng đầu ngôi chùa tìm cách để lợi dụng điều đó. Kiểu thứ bậc của kaimyo này trở nên nổi bật vào khoảng năm 1735, thời gian khi hệ thống danka được hình thành.

Tiếp theo, tôi muốn quan tâm liệu danka có thể thay đổi sự gia nhập vào chùa. Luật về chùa của Mạc phủ năm 1665 có chứa từ gợi ý rằng dẫu có thụ động nhưng danka có thể thay đổi sự gia nhập vào chùa theo sự tự nguyện. Nhưng liệu đây có phải là một trường hợp thực tế?

 

Danka và các chùa gia đình

 

Ở đây tôi muốn quan tâm tới mối quan hệ giữa các chùa gia đình và danka, thứ đã hình thành từ từ trong thời Edo, thay đổi trong những năm cuối của thời kì cận thế như thế nào. Đặc biệt, tôi muốn tập trung vào mối quan hệ quyền lực, bắt đầu với vấn đề về việc các ngôi chùa từ chối sản xuất các chứng chỉ đăng ký vào chùa dành cho các danka nhất định.

Sự ra đời của hệ thống danka đã đem lại cho các chùa quyền lực đối với danka. Các chùa bắt đầu sử dụng quyền lực này để tiến hành các biện pháp cứng rắn đối với những danka không cúng tiến và xóa bỏ các danka  phạm lỗi khỏi đăng ký gia nhập tôn giáo. Các chùa, do công dụng của Shuhanken, sẽ  dễ dàng từ chối tạo ra chứng chỉ đăng ký vào chùa, bằng cách đó mà từ chối bảo đảm rằng danka không phải là tín đồ đạo Cơ đốc. Khi điều này được tiến hành, không một thành viên nào của gia đình danka có thể chứng minh rằng ông/bà ta không phải là tín đồ Cơ đốc giáo. Những danka như thế được gọi là “bị loại khỏi sổ” hay “ngoài sổ” (chogai) và bị đưa vào đăng ký hộ khẩu dành cho hinin (Phi nhân) và trở thành nạn nhân của sự phân biệt đối xử.

Trong khoảng thời gian 10 năm, danka có thể trở lại địa vị cũ nhưng để làm điều đó danka sẽ cần phải lấy chứng chỉ đăng ký vào chùa để đảm bảo địa vị của mình từ tay trụ trì của chùa. Do đó, danka phải tặng quà cho chùa để có được ân huệ, đệ trình lời xin lỗi bằng văn bản hứa sẽ không chống lại sự mong ước của chùa lần nữa, tìm lấy một người bảo lãnh và đề nghị được tái ghi vào đăng ký gia nhập tôn giáo. Tôi muốn giới thiệu một ví dụ về người đã tiến hành quá trình này. Nông dân Sajiro từ làng Iiyama (huyện Aiko, tỉnh Sagami) đã đệ trình lời xin lỗi dưới đây tới chùa Seiren-ji (làng Sanka, huyện Aiko) của phái Ikko, chi phái Nishi Hongaji.

 

Kính cẩn trình lên lời xin lỗi tới Seiren-ji

Gần đây người ta ra lệnh rằng con bị xóa khỏi đăng ký gia nhập tôn giáo vì sự bất cẩn của con. Con hiểu rằng đó là biện pháp thích hợp. Cho tới nay con đã không tham gia vào các buổi lễ kỉ niệm ngày mất của đức Phật hoặc các nghi lễ kỉ niệm dành cho cha mẹ và tổ tiên của con. Con đã đi ngược lại các mệnh lệnh do chùa ban hành và kể  từ năm Thìn (1844), con đã không trả số thuế phải gánh. Nhiều lần chùa đã viếng thăm con tại nhà nhưng con đã tiếp đón rất thô lỗ. Bằng thái độ như thế, con đã không đóng góp bất cứ thứ gì cho việc tu sửa lại tòa nhà chính-công việc đã được trù tính gần đây. Thậm chí danka từ các ngôi chùa khác đã đóng góp nhưng con thì không. Không từ nào có thể chuyển tải được lời xin lỗi của con vì đã gây cho chùa sự tức giận. Do tất cả sự bất cẩn của con ở điểm này, con trình lên lời xin lỗi thay mặt cho nhóm con (goningumi-nhóm 5 người). Con hi vọng rằng bằng cách này hay cách khác chùa sẽ chấp nhận nó. Nếu chùa làm vậy, con sẽ vô cùng biết ơn. Từ giờ trở đi con sẽ tuân theo luật của ngôi chùa của con và của tỉnh, và con sẽ không bao giờ chống lại mệnh lệnh của chùa. Nếu chùa nhân từ thêm con vào đăng ký gia nhập tôn giáo, nó sẽ là sự phù hộ cực kì vĩ đại hơn cả thứ con xứng đáng. Khi có mối bất hòa nổi lên, con sẽ sắp xếp mọi việc như chùa mong muốn và con sẽ không bao giờ nói bất cứ điều gì đáng ghét. Đây là lời xin lỗi của con dành cho những ngày qua.

(Không rõ ngày), tháng cuối năm Koka thứ 3 (1846), năm Ngọ, Làng  Iiyama  Sajiro.

Bởi vì không có sự không nhất quán nào trong tư liệu nêu trên, cả nhóm đã đóng dấu.

Đại diện nhóm Yasaburo

(ATSUGISHI HISHOBU SHISHI HENSANSHITSU 1986, trang 907).

Từ tài liệu này chúng ta biết Sajiro đã được cảnh báo rằng ông ta sẽ bị loại bỏ ra khỏi đăng ký bởi vì ông ta đã không có sự đóng góp kinh tế  đối với chùa. Mặc dù chùa ép ông ta trả, ông ta đã không có đóng góp cho ngày giỗ Phật (bukki) và các nghi lễ kỉ niệm hàng năm dành cho cha mẹ và tổ tiên ông ta và số tiền mà mỗi danka phải chi trả hàng năm (ông ta đã không trả 3 năm trước) và số tiền dùng để tu sửa tòa nhà chính trong chùa. Nói một cách khác, ông ta đã hoàn toàn lờ đi bổn phận của một danka. Những lời phàn nàn này gắn liền với những nỗ lực của chùa  để điều hành các sự kiện của nó trôi chảy; chúng về cơ bản không liên quan tới liệu chùa có loại bỏ Sajiro khỏi đăng ký gia nhập tôn giáo hay không. Tuy nhiên, Shuhanken trao cho chùa  quyền kiểm tra xem Sajiro có phải là tín đồ Cơ đốc hay không, và chính nó giúp cho chùa quyết định giữ lại hay loại bỏ ai đó khỏi đăng ký. Nói tóm lại, bản chất của hệ thống danka ở thời cận thế là việc chùa sử dụng shuhanken để làm cho danka trở thành nền tảng của tổ chức của mình. Thêm nữa, ngôi chùa gia đình có quyền lực quyết định đối với cuộc sống hay cái chết của tất cả các thành viên của danka. Các tài liệu còn sót lại cung cấp bằng chứng cho điều này. Nếu Sajiro không viết lời xin lỗi, ông ta có thể sẽ không tiếp tục sống được; đó là tình huống thực tế của hệ thống danka. Tiếp theo tôi  muốn giới thiệu một trường hợp liên quan đến một samurai.

 

Một Samurai người bị từ chối quyền phá bỏ mối ràng buộc với chùa gia đình (ridan)

 

Hệ thống danka của thời Edo làm cho không chỉ người nông dân mà cả Samurai không thể chống lại mong muốn của ngôi chùa gia đình và phá vỡ mối ràng buộc với nó. Tôi muốn quan tâm đến ví dụ về Tanaka Sahei, một chư hầu có thứ bậc cao của vùng Kumamoto (ông ta nhận lương 4000 koku). Ngôi chùa gia đình của ông ta là Zenjo-ji của phái Soto trong phố dưới lâu đài nhưng ông cố gắng phá vỡ mối liên hệ với nó và đổi sự gia nhập của mình sang Honmyo-ji của phái Nichiren. Trước hết cho phép tôi miêu tả hai ngôi chùa.

Zenjo-ji nằm bên ngoài cổng Korai của sân lâu đài Kumamoto. Không rõ người bảo trợ sáng lập nó là ai nhưng nhà sư sáng lập là Sunden. Mặc dù ban đầu nó đặt ở Furumachi, ngôi chùa đề nghị được phép chuyển tới và chiếm lĩnh vị trí hiện tại khi Kato Kiyomasa là lãnh chúa phong kiến. Vào thời gian đó nó thay đổi tên ngọn núi của nó thành Gyokuryusan và 5 tan 3 se 9 bu (5, 277 mét vuông) đất đai của nó được miễn thuế (xem Higo, Bungo Goryoai Zenji-in Honmatsucho[1]). Ngôi chùa đứng sau chùa này (chuhonji) là Teinei-ji (tỉnh Nagato) và chùa đứng đầu của nó là Myoko-an tại Kushihi Soji-ji (huyện Fugeshi, tỉnh Noto).

Ngôi chùa khác, Honmyo-ji của phái Nichiren, là chùa đứng đầu trong hệ thống chùa phụ ở trong vùng. Kato Kiyomasa thành lập ngôi chùa vào năm 1588 và năm 1614 mộ ông ta được  chuyển từ nền lâu đài tới chùa, nơi nó được lưu giữ tới ngày nay. Trong thời của Kiyomasa, ngôi chùa đã  giữ 700 koku nhưng sau khi Hosokawa Tadatoshi trở thành lãnh chúa, nó rút ngắn lại còn 400 koku. Ngôi chùa nằm ở làng Nakao, huyện Akita và trong đó có 12 người đóng vài trò là nhà sư. Bản doanh của nó là Honkoku-ji ở Kyoto.

Cả hai chùa, những chùa đầy quyền lực được thành lập vào cuối thời trung đại đã có liên quan đến các sự kiện chính liên quan đến chính quyền trong vùng. Tanaka Sahei thông báo quyết tâm thoát khỏi chủa Zenjo-ji vào ngày 23 tháng 6 năm 1737. Đáp lại, Zenjo-ji đã từ chối đề nghị này:

Thật khó để biết làm thế nào để giải quyết yêu cầu thay đổi sự gia nhập của Tanaka Sahei. Ông ta nói với chúng tôi rằng ông ta định  đi ngược lại hợp đồng 100 năm giữa chùa và danka của ông ta và thay đổi sự gia nhập vào chùa bởi vì một lần ốm đã được chữa trị. Những sự yêu cầu như thế là không được phép.

(SHIN KUMAMOTO SHISHI HENSAN IINKAI 1996, trang 861-70).

 

Tanaka Sahei là một người tàn tật trong thời gian dài và không thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ. Ông đã cầu nguyện nhiều nơi nhưng không thuốc nào chữa được. Vào lúc ông mệt mỏi với tất cả các biện pháp trị liệu bằng thuốc, ông đã gặp một nhà sư tên là Myoonbo từ chùa Honmyo-ji. Tiếp nhận sự điều trị từ nhà sư này, Sahei hồi phục và muốn thay đổi sự gia nhập tôn giáo từ chùa Zenjo-ji tới chùa Honmyo-ji. Tuy nhiên ông tuyên bố rõ rằng con nuôi ông sẽ duy trì nghĩ vụ với chùa Soto Zen, Zenjo-ji và sẽ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của danka với các ngôi chùa như trước đó. Zenjo-ji mặt khác, từ chối chông nhận đề nghị của Sahei thoát khỏi chùa. Dưới đây là lời giải thích của Zenjo-ji:

 

Liên quan tới đề nghị thay đổi môn phái và gia nhập vào chùa, biết rằng chùa chúng tôi không có gì sai nó không rõ ràng liệu rằng vấn đề nằm ở những lời dạy của môn phái chúng tôi, ngôi chùa hay trụ trì. Không có lý do đặc biệt nào dành cho việc dời bỏ ngôi chùa của chúng tôi. Mặc dù có vẻ như không sao nếu cá nhân dễ dàng thay đổi môn phái hay chùa của mình, nếu cá nhân này dời đi  trong nhiệm kì của tôi với cương vị như là trụ trì chùa, nó sẽ là một vấn đề lớn đối với tôi bởi vì gia đình của cá nhân này đã có mối liên hệ lâu dài và đặc biệt đối với ngôi chùa của chúng tôi với tư cách như là tín đồ…

Ý nghĩa của việc trở thành tín đồ của chùa liên quan không chỉ việc tiếp nhận một đám tang hay nhang thờ (các dịch vụ kỉ niệm) tại ngôi chùa mà tiếp nhận chứng chỉ của chùa chứng tỏ rằng ai đó không phải là thành viên của môn phái ma quỷ. Do đó, sẽ là không thể cho ai đó thay đổi sự gia nhập môn phái mà không bị trừng phạt.

 

Zenjo-ji có vị trí mà dù thế nào đi nữa nó cũng không có lỗi nên nó sẽ không cho phép Sahei thay đổi sự gia nhập vào chùa, thứ đã duy trì ở gia đình ông ta suốt 100 năm. Ngôi chùa cũng nhấn mạnh vai trò của nó như như là một điều tra viên phụ trách việc gia nhập tôn giáo. Đáp lại, Honmyo-ji đã đưa ra phản biện sau:

 

Ý kiến cho rằng mối liên hệ lâu đời giữa tăng lữ và  người thế tục là có lợi cho người thế tục trong cả thế giới này lẫn thế giới bên kia, (tôi phải nói) nếu tôi không nói dối, nó (không phải là sự phản ánh ) cảm giác thực sự của tôi. Thêm nữa, (nhà sư của Zenjo-ji nói rằng việc cắt bỏ mối ràng buộc danka đã có lâu đời) sẽ vô hiệu hóa quyền lực của phật và thần bảo vệ sinh linh nhưng bởi vì tôi nghi ngờ điều này, tôi đã hăng hái đưa ra ý nghĩ của tôi (rằng danka nên được dựa trên lòng trung thành hiện tại, và không phải đơn giản là  truyền thống của mối quan hệ thế tục với một ngôi chùa hay tăng lữ xác định nào đó). (Để đáp trả lời biện hộ của các ông về  tiền lệ vượt qua lòng trung thành hiện tại), tôi nói rằng (một vị trí như thế) sẽ làm cho nó rất khó đối với mọi người để thờ phật  và thần  thứ ban tặng sự cứu rỗi linh hồn. Nếu các ông nói rằng (việc loại bỏ mối ràng buộc của danka là vô lý, ta vặn lại bằng việc nói rằng các ông đang cưỡng ép mọi người nhận tội không  tiếp nhận phật, thần và áp đặt họ.

 

Honmyo-ji chỉ trích Zenjo-ji bằng cách khẳng định rằng bản chất của mối quan hệ của hộ gia đình đối với một ngôi chùa là dựa trên lòng trung thành hơn là dựa trên nghĩa vụ của danka đối với ngôi chùa gia đình của ông ta. Honmyo-ji đưa ra lý lẽ sau:

 

Bởi vì Luật (mạc phủ) nói rằng sự gia nhập tôn giáo phụ thuộc vào  sở thích (của chính danka), các nhà sư không được ép buộc người thế tục; do đó, liệu có phải rằng các ông đã vi phạm luật này?

 

Homyo-ji đã đưa ra một điều khoản từ Shoshu jiin hatto (Chư tôn tự viện pháp độ), một bộ luật năm 1665 được ban hành bởi Mạc phủ: “các gia đình danka nên phó thác bản thân họ cho chùa, bất chấp ngôi chùa đó là như thế nào và các nhà sư không được tranh giành tín đồ thế tục”. Từ vị trí hiếu chiến này, Honmyo-ji nhấn mạnh rằng dưới bộ luật của Mạc phủ, phá vỡ mối ràng buộc với một ngôi chùa là có thể. Sự tranh cãi này là chắc đúng nhưng điều kiện không cho phép một kết luận như thế được thực thi. Cuối cùng, lãnh địa Kumamoto đã không thể giải quyết vấn đề và cầu cứu quan tòa dành cho chùa-đền. Chức vụ của Sahei bị dỡ bỏ và ông ta bị bắt tại nhà. “hoàn cảnh của sự chuyển đổi (yêu cầu) được cho là không thích hợp, vì vậy đi cùng với nó, Sahei đã bị đưa ra khỏi nhiệm vụ của mình và bị bắt giữ tại nhà”.  Thậm chí đối với những người có vị thế như Sahei bức tường ngăn chặn phá vỡ mối liên hệ với chùa vẫn rất lớn; tự do tôn giáo không được công nhận. Người ta có thể nói rằng quyền lực của các ngôi chùa gia đình là thứ thật đáng sợ.

Như hai ví dụ ở trên, trong mối quan hệ giữa chùa và danka, ngôi chùa đã có quyền lực quá mạnh. Thêm nữa, triết lý trong tác phẩm được đề cập ở trên Gojomoku gây ra sự sợ hãi. Với tư cách như là một Samurai có thứ bậc cao nhất, Sahei là một công chức đầy quyền lực ở lãnh địa Kumamoto trong việc kiểm soát các ngôi chùa, nhưng sự đối lập với ngôi chùa gia đình của ông ta đã tước đi của ông cả vị trí xã hội và địa vị xã hội. Mặc dù nó không tuân theo logic xã hội, các ngôi chùa gia đình dường như có quyền lực để ngăn chặn thâm chí là quan tòa tôn giáo cho phép thay đổi ngôi chùa gia đình của mình. Vô số các tư liệu còn lại chứng minh rằng thái độ ngôi chùa gia đình có đối với nông dân Sajiro đề cập ở trên là tiêu biểu. Và những điều kiện có hại của hệ thống danka nằm chính trong thái độ như thế.

(còn tiếp)


[1] Tư liệu này được giữ tại Eisei Bunko của thư viên đại học Kumamoto.

 

Xã hội địa phương và mối quan hệ Danka trong cấu trúc cai trị của Mạc Phủ (2)

July 4, 2013 Leave a comment

Tạp chí nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản số 28 tháng 3,4 năm 2001

Xã hội địa phương và mối quan hệ  Danka trong cấu trúc cai trị của Mạc Phủ

Tác giả: TAMAMURO Fumio

Bài báo này ban đầu được công bố trong TAMAMURO 1999, trang 178-223. Đây là bản dịch tiếng Anh cho JJRS thực hiện bởi Holly Sanders và được biên tập lại bởi tác giả.

Nguyễn Quốc Vương dịch sang tiếng Việt.

 

Danka lý tưởng

Tài liệu được viết như thể nó là một bộ luật của mạc phủ đã xuất hiện vào giữa thời kỳ Edo khoảng năm 1735 (năm Kyoho 20). Ban hành vào tháng 5 năm 1613 (năm Keicho 18), tài liệu có tựa đề “Gojomoku shumon danna ukeai no okite” (các luật lệ riêng về chứng nhận gia nhập tôn giáo dành cho danka) (từ dưới đây gọi là Gojomoku) hay Toshogu jugokajo là một sự giả mạo điêu luyện. Nó bao gồm Tokugawa kinreiko, thứ có nghĩa rằng thậm chí phần lớn các nhà sử học nghiên cứu luật pháp Minh Trị cũng nhầm nó như là một tư liệu luật pháp Mạc phủ (ISHII 1959, trang 2670). Nhưng chúng ta có thể suy ra rằng tư liệu này là sự giả mạo bởi vì nó  không chỉ  buộc tội những tín đồ Cơ đốc giáo mà cả các Fuju-fuse và Hiden, một thứ phái của phái Nichiren, như là tôn giáo phi chính thống bị cấm bởi mạc phủ. Trên thực tế, lệnh cấm toàn diện đối với đạo Cơ-đốc được ban hành năm 1638 (năm Kannei thứ 15), lệnh cấm đối với thứ phái Fuju-fuse năm 1669 (năm Kanbun thứ 9) và đối với thứ phái Hiden năm 1691 (năm Genroku thứ 4). Gojomoku phải được viết  không chỉ sau lệnh cấm phái Hiden năm 1691 mà còn phải sau năm 1729 (năm Kyoho 14) năm ban hành lệnh cấm Ridan, tập tục ở đó danka có thể phá vỡ mối ràng buộc với ngôi chùa gia đình. Vì vậy tư tiệu phải có niên đại không sớm hơn năm 1735 (năm Kyoho thứ 20).

Lý do lựa chọn niên đại là năm 1613 liên quan tới Lệnh trục xuất các giáo sĩ Cơ đốc (Bateren tsuihorei), thứ Tokugawa Ieyasu ban hành vào tháng 12 năm 1613. Trong tháng 2 và tháng 3 năm 1614, những người Cơ đốc giáo ở Kaga, Kyoto, Buzen và Bungo bị ép cải đạo và bị gọi là “những người Cơ đốc sa ngã” (korobi Kirishitan). Vào thời gian đó, như đã đề cập bên trên, các trụ trì đã phải tạo ra các chứng chỉ đăng ký vào chùa dành riêng cho “những người Cơ đốc sa ngã”, như là bằng chứng về sự cải đạo của họ. Tác giả của Gojomoku có xu hướng làm cho nó xuất hiện như thể Ieyasu đã xác định được cách thức xác định những tín đồ Cơ đốc và khái niệm chứng nhận đăng ký vào chùa trước khi ban hành Lệnh trục xuất các giáo sĩ Cơ đốc nhưng ông ta đã phạm sai lầm trong việc kết hợp lệnh cấm đối với việc danka phá vỡ mối ràng buộc với ngôi chùa của họ và lệnh cấm  đối với Fujufuse, Hiden. Do đó, tôi muốn đưa ra các năm xung quanh mốc 1735 (năm Kyoho thứ 20) như là niên đại có thể của tư liệu này. Rất nhiều bản sao còn được giữ lại trong các chùa và trong các bộ sưu tập địa phương. Bởi vì nội dung giống với bộ luật gia đình đã đề cập ở trên nhiều bản sao có niên đại 1687 (năm Jokyo 4). Sau đó, các đăng ký gia nhập tôn giáo đôi khi trích dẫn Gojomoku và khi danka không thích hợp với điều kiện đặt ra trong Gojomoku, các ngôi chùa đã từ chối ban hành chứng chỉ đăng ký vào chùa. Tôi sẽ giải thích điều này đã trở thành nguồn gốc của các tranh chấp giữa chùa và danka như thế nào ở phần sau. Ở đây tôi sẽ chỉ trích những phần có liên quan đến sự tuân thủ nghiêm ngặt các nghi lễ ghi nhớ tổ tiên và uy quyền của chùa.

Có bốn điều liên quan tới sự tuân thủ nghiêm ngặt các  nghi lễ nghi nhớ.

Thứ nhất:

Danka-thậm chí là người đứng đầu danka (đại diện của danka)-người không tham gia nghi lễ trong lễ kỉ niệm ngày mất  của người sáng lập môn phái, lễ kỉ niệm ngày mất của đức Phật, lễ Bon trong tuần điểm phân hoặc lễ kỉ niệm ngày mất của tổ tiên ông ta, sẽ bị loại bỏ tên khỏi đăng ký, cơ quan đảm trách tôn giáo sẽ thông báo và danka sẽ bị điều tra.

Nói một cách khác, Danka có nghĩa vụ thăm viếng chùa vào những ngày sau đây, ngày kỉ niệm ngày mất của người sáng lập môn phái, ngày kỉ niệm ngày mất của  đức Phật (bukki-Phật kị, ngày 15 tháng 2), bon (hay urabon, ba ngày bắt đầu từ ngày 13 tháng 7), ngày lễ trong tuần điểm phân (bảy ngày trước và sau xuân phân và thu phân), ngày giỗ tổ tiên và những người khác. Danka lý tưởng  không được phép quên những lễ kỉ niệm tổ tiên, phải tích cực tham gia vào các nghi lễ do chùa tổ chức và luôn thận trọng để cúng tiến thích hợp. Nếu như cho dù là một danka đầy quyền lực giống như là đại diện của danka thất bại trong chuyện viếng thăm, tên của các thành viên trong gia đình ông ta cũng như bản thân tên của gia đình có thể sẽ bị xóa bỏ khỏi đăng ký gia nhập tôn giáo. Ngôi chùa sẽ báo cáo tình hình lên người quản lý của mạc phủ người sau đó sẽ bắt gia đình đó phải chịu sự điều tra khắc nghiệt. Do vậy một vị trụ trì của chùa  người thực thi Shuhanken ở phạm vi cao nhất trên thực tế có thể loại bỏ địa vị “danka” của hộ gia đình.

Thứ hai:

Những tín đồ Cơ đốc và thành viên của Fuju-fuse vào ngày giỗ của tổ tiên không nhận đồ tang của các bậc tu hành. Vào ngày đó họ không nói gì với chùa, nhưng sau đó họ tụ tập cùng nhau với những người thế tục. Khi bậc tu hành chính thức tới họ sẽ tiếp đón ông ta bằng sự từ bỏ. Trong những trường hợp như thế việc điều tra nên được tiến hành.

Tình hình này xác định rằng có hai công việc là nghĩa vụ vào ngày giỗ của tổ tiên. Nếu một danka không có sự hoan nghênh thích hợp dành cho bậc tu hành của chùa tại buổi lễ, danka đó sẽ bị coi như là tín đồ Cơ đốc hoặc là thành viên của Fuju-fuse.

Thứ ba:

Việc tiếp nhận dịch vụ kỉ niệm hay dịch vụ tang lễ của các ngôi chùa khác bị nghiêm cấm ngoại trừ trường hợp chết ở tỉnh khác.

Ngoại trừ các trường hợp chết ở bên ngoài tỉnh, ngôi chùa gia đình có thể tiến hành các dịch vụ kỉ niệm một mình. Điều kiện này đặt ra là để ngăn cấm các gia đình thay đổi sự gia nhập vào chùa. Không tuân theo quy định này có nghĩa rằng danka sẽ bị coi như là thành viên của tôn giáo phi chính thống.

 

Thứ tư:

Những người đủ sức khỏe để đi những người không tham gia vào việc phục vụ lễ kỉ niệm tổ tiên hoặc những người lơ đễnh với sự mộ đạo sẽ bị điều tra và  sự cúng tiến mà người đó dành cho chùa sẽ bị điều tra kỹ lưỡng.

Sự chỉ dẫn vô cùng chi tiết này cảnh báo rằng ai khỏe đủ sức đi mà không tham dự lễ kỉ niệm tổ tiên hay cư xử bất cẩn sẽ bị điều tra nghiêm ngặt và sự cúng tiến của cá nhân người đó vào chùa cũng bị làm như thế.

Ở trên chúng ta thấy ý định của chùa sử dụng lễ kỉ niệm tổ tiên như là đòn bẩy đối với việc thành lập hệ thống danka. Tôi nghĩ cần phải lưu ý rằng nều một danka lơ đễnh, ngôi chùa có quyền loại nó ra khỏi đăng ký gia nhập tôn giáo, trên thực tế là đã coi hộ đó như là thành viên của tôn giáo phi chính thống.

Tiếp theo là 5 nghĩa vụ của daka.

Thứ nhất:

Danka không thực hiện nghĩa vụ mà có thái độ ích kỉ, danka không có nhu cầu tham gia vào sự gia nhập tôn giáo tiến hành bởi các bậc tu hành của chùa, và danka không thực hiện sự đóng góp  của mình với công việc của chùa sẽ bị coi như là người có niềm tin vào môn phái Fuju-fuse phi chính thống.

 

Ở đây, danka bị ép buộc phải thực hiện các nghĩa vụ của mình, một gánh nặng lao động và kinh tế được đảm nhận dành cho ngôi chùa. Danka không sử dụng sư của chùa cho Shumon ukeai (một điều tra ở đó chùa đảm bảo rằng danka không thuộc về tôn giáo phi chính thống) và danka không thực thi nghĩa vụ kinh tế, lao động đối với chùa được đánh đồng với người có niềm tin vào môn phái Fuju-fuse vốn bị đặt ngoài vòng pháp luật.

Thứ hai;

Môn phái phi chính thống là môn phái ở đó mọi người không tiếp nhận lời dạy của ngôi chùa gia đình, không hiến tiền cho nhà sư và các dự án trung tâm của ngôi chùa hoặc không chấp nhận và hiến tiền cho mọi người của các tôn giáo khác. Mọi người phải hiến tiền cho thế gian để có được sự phù hộ của thiên đường và cho bậc tu hành để có được sự phù hộ của đức Phật. Đây là chính pháp; vì thế (những danka này) sẽ bị điều tra.

Điều kiện này miêu tả logic của Fuju-fuse như “không hiến hoặc nhận từ những người không tin vào kinh Pháp hoa”. Bản thân lời phát biểu không có vấn đề gì nhưng nửa sau của quy định đòi hỏi sự biến đối. “Mọi người phải hiến tiền cho…các bậc tu hành để có được sự phù hộ của đức Phật. Đây là chính pháp”. Sự phát biểu này đóng vai trò như là lợi ích ích kỉ của ngôi chùa bởi vì ngôi chùa có thể coi danka không thực thi cách này như là thành viên của thứ phái Fuju-fuse do đó đưa họ vào sự điều tra khắc nghiệt.

Thứ ba:

Mặc dù danka có thể đã thuộc về một ngôi chùa qua nhiều thế hệ và sự gia nhập vào một trong nhiều môn phái có thể  rõ ràng, hậu duệ có thể vì một lý do nào đó mà chứa chấp niềm tin vào một tôn giáo phi chính thống và sẽ bị chùa điều tra.

 

Cho dù nhiều thế hệ của một hộ là danka của một ngôi chùa nhất định nào đó, ngôi chùa phải điều tra kỹ lưỡng kể cả là gia đình đó bởi vì con cháu có thể theo tôn giáo phi chính thống. Đương nhiên ngôi chùa không nên tin vào danka và tiến hành điều tra họ.

 

Thứ tư:

Sau khi chết khi trụ trì cạo đầu vào ban cho một kaimyo (giới danh) ông ta có thể xác định xem liệu người chết có thuộc về một môn phái phi chính thống nào hay không dựa vào diện mạo của thi hài và do có shumon ukeai ông ta sẽ  tiến hành công việc và điều tra kĩ lưỡng

 

Quy định này có nghĩa rằng một khi ai đó chết, trụ trì của chùa khi nhìn vào thi thể có thể tự do xác định sự gia nhập tôn giáo của người đó.

Thứ năm:

Cuối cùng, danka phải hoàn toàn tuân theo chỉ dẫn của ngôi chùa và hết lòng với tôn giáo.

 

Các điều kiện đã miêu tả nghiêm túc các quyền rộng lớn mà ngôi chùa có trong mối quan hệ với danka như thể là danka vui sướng thực thi các nghĩa vụ của mình do ngôi chùa đặt ra-thứ bao gồm thực hiện sự hiến tặng lớn cho bậc tu hành để chỉ ra sự tôn kính của mình đối với Phật và làm mọi thứ theo mệnh lệnh của bậc tu hành khi chết. Việc phá vỡ mối ràng buộc với ngôi chùa gia đình cũng bị cấm. Tiếp theo tôi sẽ quan tâm tới tang lễ, báo tử và Homyo (Pháp danh), thứ đôi khi khó hiểu.

Sự sản xuất đăng ký báo tử

Thật khó để xác định thời điểm trong thời Edo khi các ngôi chùa bắt đầu tạo ra các đăng ký báo tử (kakocho). Cần thiết hơn chỉ dụ của Mạc phủ, khiến cho các ngôi chùa tạo ra chúng, một hoàn cảnh làm cho việc xác định tiêu chuẩn hóa đăng ký báo tử một cách chính xác trở nên không thể.

Các đăng ký báo tử từ thời trung đại có thể được tìm thấy trong Gunsho ruiju (HANAWA 1932), thứ bao gồm bốn bộ  đăng kí báo tử sau.

1. Một bộ  đăng ký báo tử dành cho Hokke-ji (Bambashuku,  tỉnh Omi), bao gồm cái chết từ cuộc nổi loạn Genko năm 1333 và 1334. (Gunsho ruiju tập 29, trang 243-52).

2. Một đăng ký báo tử  từ Matsuoka Kamakura, tỉnh Sagami là của Tokei-ji. Nó bao gồm những cái chết bắt đầu bằng người sáng lập, ni cô Kakuzan Shido, tới người đứng đầu thứ 21, ni cô Eizan (chết năm 1707). Trong trật tự thông thường nó cũng miêu tả Kaimyo dành cho các tướng lĩnh quân đội như Shogun và các quan nhiếp chính những người phục vụ dưới trướng Minamoto Yoritomo tới thời Toyotomi Hideyoshi. Thêm nữa, nó liệt kê danh sách kaimyo dành cho Eisai, người sáng lập Jofuku-ji, Kanto, Furukawa Kubo và gia đình Kirekawa-những người có liên quan gần gũi với ngôi chùa (Gunsho ruiju tập 29, trang 245-56)

3. Một bộ đăng ký báo tử dành cho Rokutanda Rokujizo-ji (Huyện Ibaraki, tỉnh Hitachi) có chứa một số lượng lớn hai chữ Kaimyo bao gồm nhiều thứ bậc như zenjo-mon, zenjoni, zenmon và zen’ni. Các năm được thêm vào các tên là từ 1508 đến 1594 (Gunsho ruiju tập 29, trang 257-67).

4. Một bộ đăng ký báo tử dành cho Dentozan Wako-in (làng Tajima, tỉnh Hitachi) chứa một số lượng lớn hai chữ Kaimyo. Các ghi chép có niên đại vào khoảng giữa năm 1563 đến 1631. (Gunsho ruiju tập 29, trang 268-69).

Một đăng ký báo tử được cho là cổ là đăng ký dành cho các nhà sư được giữ ở Seijoko-ji, ngôi chùa đứng đầu môn phái Ji, nằm ở thành phố Fujisawa, tỉnh Kanagawa. Được biên soạn bởi các trụ trì chùa, nó bắt đầu vào năm 1279 và kết thúc vào năm 1562 ở vào đời trụ trì thứ 29-Taiko. Đăng ký báo tử có kiểu cuốn sách gập và được chia làm hai phần, một phần dành cho các nhà sư và một phần dành cho các ni cô. Nó được coi như là “đăng ký báo tử cổ” để phân biệt nó với các đăng ký báo tử mà phái Ji tiếp tục duy trì tới tận ngày nay. Ban đầu, “Đăng ký báo tử cổ” là dành cho cho các nhà sư và ni cô những người đã theo Yogyo Shonin của phái Ji nhưng sau đó nó được mở rộng tới cả các gia đình thế tục.

Mặc dù xét về mặt kĩ thuật nó không phải là đăng ký báo tử – những  thứ được gọi là Geppaicho vẫn đươc giữ ở đỉnh Koya. Tư liệu này liệt kê danh sách kaimyo của họ hàng gần gũi của những người đã cúng tiến cho các đền phụ trên núi xung quanh. Các tín đồ cúng  tiến nhiều đến nỗi sự qua đời của họ được nghi nhớ trong các lễ kỉ niệm hàng tháng. Tư liệu được phát hiện gần đây này tiết lộ rằng vào đầu thế kỉ 16, Kaimyo của những người bình thường bắt đầu được ghi chép trong đăng ký giống như là Kakocho (ghi chép sớm nhất là dành cho Geppaicho của Takamuro-in ở đỉnh Koya có niên đại 1536).

Các ngôi chùa gia đình bắt đầu sản xuất các đăng ký báo tử ghi lại kaimyo của những người bình thường rộng rãi hơn vào thời điểm nào trong thời cận thế? Những đăng ký báo tử như thế đương nhiên được nghĩ rằng theo sau sự ra đời của các chứng chỉ chứng nhận sự đăng ký với chùa và mối quan hệ chùa-danka. Mặc dù có những ví dụ của đăng ký báo tử được biên soạn từng phần từ những thông tin sao chép từ các bia mộ của chùa và từ  các tấm bài vị của nhà xác của những người bảo trợ sáng lập, các đăng ký báo tử chính thức  có niên đại sớm nhất từ 1635 và trở nên phổ biến hơn giữa các năm 1700 và 1720.

Có ba kiểu đăng ký báo tử. Một kiểu là “đăng ký báo tử hàng năm” (nenji shokei) thứ được sắp xếp theo thứ tự thời gian ngày, tháng, năm của người chết. Bậc tu hành đứng đầu ghi chép tên của từng người và tang lễ được tổ chức theo trật tự của ngày, tháng, năm. Phổ biến hơn là kiểu được biết đến như đăng ký báo tử kiểu theo lịch (kuridashi), ở đó những người chết được ghi lại theo từng ngày của tháng, từ ngày một đến ngày 30, và xếp theo thứ tự thời gian bắt đầu với ngày, tháng, năm sớm nhất. Kiểu đăng ký báo tử này  được dựa trên  thông tin được trích từ bản đăng ký hàng năm đã được đề cập ở trên. Các vị sư trụ trì, những người sẽ chỉ đạo nghi lễ buổi sáng trong lễ kỉ niệm ngày mất thường sử dụng phiên bản hàng tháng vì vậy nó được giữ trong  tòa nhà chính. Dạng thức của nó được chia thành hai hay ba phần; phần thứ nhất chỉ ra người sáng lập môn phái và các bậc tu hành cao cấp của nó cũng như tướng quân và người bảo trợ sáng lập, trong khi các phần sau miêu tả tên của người chết. Kiểu thứ ba của đăng ký báo tử được làm dành cho danka cá nhân. Trong đó ngày chết được viết lại theo trật tự người chết sớm nhất ở vị trí đầu tiên. Kiểu đăng ký báo tử này, được biết đến như “đăng ký báo tử hộ gia đình” (iebetsu) rất tiện lợi cho việc tiến hành các nghi lễ kỉ niệm hàng năm. Tuy nhiên, đăng ký báo tử theo kiểu lịch là phổ biến nhất.  Cả ba loại nói trên đều được tạo ra trong các ngôi chùa khoảng năm 1720.

(còn tiếp)